Kỳ 1: Những thành tựu đạt được
Thực hiện nhiệm vụ phát triển vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) theo Nghị quyết số 54 của Bộ Chính trị khóa IX, những năm qua, các cấp, các ngành của tỉnh đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của kinh tế vùng và sự liên kết; đã tích cực, chủ động sáng tạo khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế, gia tăng khả năng liên kết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nam Định cùng các tỉnh, thành phố trong vùng và tiểu vùng khẳng định vị thế vùng kinh tế động lực, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Công ty Cổ phần May Sông Hồng chi nhánh huyện Nghĩa Hưng. |
Vùng ĐBSH gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, được phân thành 2 tiểu vùng là: tiểu vùng Bắc ĐBSH (đồng thời cũng là vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ), gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên; và tiểu vùng Nam ĐBSH, gồm 4 tỉnh: Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Vùng ĐBSH là cửa ngõ phía Bắc của nước ta và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - một thị trường rộng lớn nhất thế giới và ngược lại… Chính vì vậy, trước xu thế phát triển mới của thế giới, đặc biệt là vấn đề toàn cầu hóa, ngày 14-9-2005, Bộ Chính trị khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW; qua sơ kết 6 năm thực hiện Nghị quyết, ngày 28-10-2011, Bộ Chính trị khoá XI đã ban hành Kết luận số 13-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết 54 về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSH đến năm 2010 và thời kỳ 2011-2020.
Đánh giá về kết quả thực hiện Nghị quyết 54 của tỉnh Nam Định, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Duy Hưng cho rằng: “Kết quả thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW của Nam Định là rất đáng ghi nhận. Ban TVTU tỉnh Nam Định đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản; phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong tổ chức thực hiện đồng bộ các nội dung của Nghị quyết. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, tỉnh đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương; tích cực phối hợp với các tỉnh, thành phố trong vùng; căn cứ tình hình thực tiễn để tập trung lãnh đạo, thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm và các khâu đột phá”.
Với quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt là khai thác tối đa các điều kiện, cơ hội thuận lợi nội tỉnh để xây dựng, phát triển Nam Định, đồng thời phải tận dụng phát huy sức mạnh từ sự liên kết, lan toả của các tỉnh, thành phố lân cận, đưa tỉnh Nam Định sớm trở thành trung tâm vùng Nam ĐBSH. Tỉnh đã chú trọng thể chế hoá chủ trương Nghị quyết 54 lồng ghép vào một loạt nghị quyết, quy hoạch, kế hoạch chỉ đạo, lãnh đạo để các cấp, các ngành tổ chức thực hiện đồng bộ, toàn diện trên mọi lĩnh vực nhằm cải thiện vị thế kinh tế. Huy động toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh phát huy ý chí tự lực, tự cường, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của địa phương, tích cực đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhờ đó, kinh tế nông nghiệp, nông thôn của tỉnh không ngừng chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới cho năng suất, chất lượng, giá trị cao hơn; hình thành các chuỗi liên kết giá trị trong nông nghiệp, gia tăng chất lượng và giá trị nông sản. Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá; đã có 4 khu công nghiệp và 20 cụm công nghiệp đang hoạt động. Các hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển đa dạng, đã hình thành một số siêu thị, trung tâm thương mại, dịch vụ trên toàn tỉnh. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực. Diện mạo nông thôn thay đổi rõ rệt, vai trò, ý thức làm chủ của nông dân được nâng cao; môi trường sống của người dân cải thiện tốt hơn theo hướng sáng - xanh - sạch - đẹp. Chính vì thế từ xuất phát điểm không cao về nguồn lực đầu tư song với cách làm sáng tạo, chọn đúng khâu đột phá, tỉnh được Trung ương đánh giá cao về kết quả thực hiện chương trình xay dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, là một trong 2 tỉnh đầu tiên cả nước về đích xây dựng nông thôn mới; tiếp tục được lựa chọn làm điểm giai đoạn 2021-2026.
Tỉnh đã tập trung xây dựng, phát triển 2 vùng kinh tế có vai trò động lực, làm “đòn bẩy” thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cả tỉnh là vùng kinh tế biển và phát triển thành phố Nam Định thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ tiểu vùng Nam ĐBSH. Thành phố Nam Định đã sớm hoàn thành mục tiêu nâng cấp lên đô thị loại I trực thuộc tỉnh, diện mạo đô thị có sự thay đổi rõ rệt với các công trình hạ tầng, cảnh quan như: Khách sạn Nam Cường, tổ hợp Trung tâm thương mại và nhà ở Nam Định Tower, tổ hợp Khách sạn thông minh và trung tâm thương mại Nam Định, Khu đô thị Dệt may tại vị trí Nhà máy Liên hợp Dệt Nam Định cũ, xây dựng cầu thứ tư qua sông Đào... Một số ngành công nghiệp chủ lực của thành phố đã khẳng định được vị thế quy mô vùng Nam ĐBSH và từng bước vươn lên đứng trong “tốp” đầu của cả nước. Kinh tế biển dần trở thành động lực chính trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; hàng năm đóng góp trên 25% GRDP của tỉnh. Khu kinh tế biển đã thu hút nhiều nhà đầu tư lớn, như Công ty TNHH Top Textiles tại Khu công nghiệp Dệt may Rạng Đông với tổng vốn đăng ký đầu tư là 203 triệu USD, Tập đoàn Xuân Thiện đầu tư chuỗi dự án thuộc Tổ hợp thép xanh Xuân Thiện Nam Định tại khu vực Cồn Xanh (Nghĩa Hưng) với tổng vốn đầu tư 98.900 tỷ đồng.
Tư duy về liên kết vùng trong công tác hoạch định cũng như triển khai thực hiện chính sách phát triển của tỉnh cũng được thúc đẩy. Giai đoạn 2005-2020, tỉnh đặc biệt ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội với các công trình có quy mô kết nối và giải quyết các vấn đề liên vùng. Đây là những công trình, dự án hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng hoàn vốn trực tiếp hoặc không có khả năng huy động xã hội hóa, song rất quan trọng trong việc tạo kích thích thu hút các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách cho phát triển. Các dự án được bố trí từ nguồn vốn này được triển khai đảm bảo tiến độ, chất lượng, nhiều dự án hoàn thành đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả đầu tư. Đặc biệt, trong các năm 2020-2021, vốn đầu tư công được tập trung bố trí cho 2 dự án phục vụ hợp tác, liên kết vùng là dự án xây dựng đường trục phát triển nối vùng kinh tế biển tỉnh với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình và dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển, đoạn qua tỉnh.
Bên cạnh đó, tỉnh đã tranh thủ sự hỗ trợ của các bộ, ngành và tăng cường hợp tác với các tỉnh, thành phố trong vùng trên một số lĩnh vực. Cụ thể: Đã phối hợp với các tỉnh Ninh Bình, Thái Bình triển khai thực hiện hai dự án giao thông trọng điểm phục vụ hợp tác liên vùng kể trên; thực hiện các thủ tục đầu tư xây dựng đường cao tốc Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình; phối hợp với các tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình, Thái Bình, Hưng Yên xây dựng Đề án nâng cấp một số tuyến tỉnh lộ thành quốc lộ. Các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa đã thỏa thuận hợp tác với một số bệnh viện Trung ương tại Hà Nội chuyển giao kỹ thuật, đào tạo đội ngũ y, bác sĩ cho một số bệnh viện của tỉnh như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Phụ sản, Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Nội tiết và các bệnh viện đa khoa huyện, giúp bổ sung trang bị các kỹ thuật chuyên sâu cho đội ngũ y, bác sĩ của tỉnh, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân, giảm tải cho các bệnh viện tuyến Trung ương. Phối hợp với ngành Giáo dục và Đào tạo của các địa phương trong vùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý giáo dục, tham quan, trao đổi kinh nghiệm quản lý trường học; thường xuyên tổ chức và tham gia các kỳ thi mở rộng do các tỉnh trong vùng tổ chức. Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND thành phố Hà Nội, các tỉnh Ninh Bình, Hà Nam quản lý, kiểm soát nguồn thải, khắc phục và cải thiện chất lượng nước trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy; quản lý, chia sẻ thông tin về các nguồn thải chính trên lưu vực sông; triển khai quy hoạch quản lý chất thải, quy hoạch hệ thống thoát nước, xử lý nước thải các khu dân cư, khu công nghiệp trên lưu vực sông; phối hợp giải quyết các vấn đề môi trường liên tỉnh.
Các hoạt động hợp tác quảng bá, xúc tiến thương mại, du lịch, kết nối tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong tỉnh với các doanh nghiệp phân phối của Hà Nội và các tỉnh phía Bắc cũng được tạo điều kiện. Đến nay, nhóm sản phẩm OCOP, đặc sản địa phương, làng nghề đặc trưng của Nam Định cũng như của các tỉnh, thành trong vùng đều được các doanh nghiệp liên kết, trao đổi cung ứng trong toàn vùng. Nhờ đó, tỷ trọng vốn đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước trong tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh ngày một tăng nhanh; bình quân giai đoạn 2005-2020 tăng 18,1%/năm, tương đương 1.870 tỷ đồng/năm. Nguồn vốn này đã có tác động tích cực, góp thần cải thiện, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Đây là xu hướng tích cực, phù hợp với định hướng tái cơ cấu đầu tư, giảm tỷ trọng đầu tư của Nhà nước khi nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng hạn hẹp.
Sau 17 năm chung sức thúc đẩy phát triển vùng ĐBSH theo tinh thần Nghị quyết 54-NQ/TW, quy mô nền kinh tế của tỉnh được mở rộng, có bước phát triển mới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt khá, giai đoạn 2005-2020, tăng bình quân 6,91%/năm. Nhiều chỉ số kinh tế năm 2020 so với năm 2005 đạt mức tăng trưởng đáng ghi nhận: Tổng tăng trưởng kinh tế (GRDP) giá hiện hành gấp 7,5 lần; GRDP bình quân đầu người gấp 8,2 lần; thu nhập bình quân đầu người gấp 7,8 lần; thu ngân sách từ kinh tế địa phương gấp 9,7 lần; năng suất lao động gấp 7,4 lần. So với năm 2021, GRDP năm 2022 tăng 9,07%, đạt mức tăng cao nhất từ trước tới nay; xuất khẩu đạt 3 tỷ USD, tăng 12,5%, xuất siêu gần 1,5 tỷ USD. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội được quan tâm; nhiều chính sách bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được triển khai hiệu quả; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều năm 2022 chỉ còn 1,32%. Giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực được chú trọng, Nam Định đứng đầu toàn quốc về điểm trung bình các môn kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2022...
Sự nỗ lực của Nam Định cùng 11 tỉnh, thành phố trong vùng đã góp phần đưa quy mô kinh tế của vùng ĐBSH đứng thứ 2 trong 6 vùng của cả nước; khẳng định được vai trò của vùng kinh tế động lực, thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác cùng phát triển.
(còn nữa)
Bài và ảnh: Thanh Thúy
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin