Tận dụng tiềm năng sẵn có, các địa phương ven biển Hải Hậu, Giao Thủy, Nghĩa Hưng đã tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản mặn, lợ theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển nuôi những đối tượng có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ thuận lợi.
Người dân xã Hải Triều (Hải Hậu) cải tạo ao đầm nuôi tôm thẻ chân trắng. |
Năm 2022, trong tổng số 16 nghìn ha nuôi thủy sản của toàn tỉnh thì có 6.650ha nuôi thủy sản nước mặn, lợ. Sản lượng nuôi thủy sản nước mặn lợ trong năm ước đạt 64.747 tấn, tăng 6,46% so với năm 2021. Các đối tượng chủ lực là: tôm sú, tôm thẻ chân trắng, ngao… trong đó, tôm thẻ chân trắng vẫn được người dân quan tâm đầu tư với mức độ thâm canh ngày càng cao. Đến nay, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng có 1.100ha, tăng 30ha so với năm 2021. Hiện toàn tỉnh có hơn 100ha nuôi tôm thẻ chân trắng ứng dụng công nghệ cao, tập trung tại huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu, sản lượng ước đạt 4.100 tấn (tăng 5,81%). Bên cạnh đó, các vùng nuôi ngao thương phẩm trong tỉnh phát triển ổn định với 2.350ha, sản lượng ước đạt 45.300 tấn, tăng 2,95% so với năm 2021. Tuy nhiên, kích cỡ ngao thương phẩm hiện nay có xu hướng giảm, thời gian nuôi tăng. Sản lượng ngao đủ tiêu chuẩn xuất khẩu không cao. Các loại cá như: cá bống bớp, cá song (cá mú)… cũng là những đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao và phù hợp với điều kiện tại các vùng nuôi mặn lợ. Dù bị ảnh hưởng dịch COVID-19, lượng tiêu thụ chậm hơn so với các năm trước nhưng diện tích nuôi các loại cá này vẫn chiếm 565ha; sản lượng ước đạt 5.790 tấn, tăng 12,36% so với năm 2021.
Tại huyện Nghĩa Hưng, thủy sản nuôi tập trung chủ yếu là tôm thẻ chân trắng, ngao và tôm sú tại các vùng nuôi như: Cồn Xanh, nông trường Rạng Đông, vùng ven sông Ninh Cơ… Ở vùng nuôi nông trường Rạng Đông, hàng năm tổng sản lượng thủy sản thu hoạch ước đạt 1.000 tấn. Các vùng nuôi tôm thẻ chân trắng đang ngày càng được quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, kỹ thuật thâm canh cao. Hộ ông Nguyễn Lương Bằng có diện tích 2,5ha nuôi tôm thẻ chân trắng tại vùng nuôi nông trường Rạng Đông. Để nuôi tôm có hiệu quả, ông chia thành những ao nhỏ với diện tích từ 500-1.000 m2/ao. Ao nuôi được thiết kế nổi, xây bằng bê tông, đáy lót bạt, giữa đáy được thiết kế ống hút chất thải của tôm (xi-phông đáy) đưa ra một khu ao thải (rộng khoảng 1.500m2) và được xử lý bằng chế phẩm vi sinh trước khi ra kênh thải của toàn khu nuôi tập trung. Việc quy hoạch vùng nuôi tập trung vừa giúp ông và các hộ nuôi thủy sản dễ dàng áp dụng tiến bộ khoa học vào nuôi thủy sản, vừa tạo điều kiện giúp người nuôi quản lý nguồn nước vào ao. Để an toàn hơn cho ao nuôi, ông Bằng còn áp dụng công nghệ lọc nước tuần hoàn cho các ao nuôi giúp tiết kiệm nước, tăng tỷ lệ sống của con nuôi, đảm bảo chất lượng con giống và không gây ô nhiễm môi trường. Với việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất thủy sản, những năm gần đây sản lượng tôm thương phẩm của gia đình ông tăng cao. Mỗi năm ông thu hoạch được trung bình 30 tấn tôm. Hộ ông Trần Văn Quý ở xã Phúc Thắng thành công với mô hình nuôi cua biển. Thời điểm tháng 11, 12 (âm lịch), ông Quý bắt đầu thả giống cua và thu hoạch vào tháng 3, tháng 4 (âm lịch) năm sau. Hiện gia đình ông đang có 12ha gồm cua biển xen canh với tôm sú và cá vược. Hàng năm gia đình ông thu hoạch được 6 tạ cua, thu nhập hơn 150 triệu đồng, 2 tấn tôm sú và cá vược, thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Vào các dịp nghỉ lễ, nhu cầu tiêu thụ của thị trường tăng cao nên cua bán được giá hơn so với ngày thường, giá lên đến 500-600 nghìn đồng/kg, hoặc vào tháng 5, tháng 6 là thời điểm khi cua nhiều trứng bán cũng rất được giá. Còn những ngày bình thường giá cua dao động từ 250-300 nghìn đồng/kg. Trước kia, cua giống tự nhiên ở khu vực các bãi bồi ven biển, khu vực cửa biển, cửa sông rất nhiều nhưng do người dân khai thác bừa bãi làm nguồn cua giống dần cạn kiệt nên nhiều cơ sở, hộ dân bắt đầu nghiên cứu cho cua đẻ nhân giống nhân tạo. Dù có hạn chế là kích thước cua giống nhỏ khiến việc nuôi cua có tỷ lệ hao hụt lớn hơn cua giống tự nhiên nhưng không gây ảnh hưởng nhiều đến sản lượng, chất lượng cua khi thu hoạch.
Bên cạnh nuôi trồng thì sản xuất giống thủy sản mặn, lợ tiếp tục phát triển mạnh với sản lượng đạt 14.575 triệu con, tăng 10,15% so với năm 2021. Thực hiện chỉ đạo của Sở NN và PTNT, Trung tâm giống thủy đặc sản tỉnh đang đẩy mạnh sản xuất giống một số đối tượng nuôi mặn, lợ như: cua biển, cá hồng Mỹ, hàu Thái Bình Dương và hàu cửa sông. Bên cạnh đó, Trung tâm còn hợp đồng với một số doanh nghiệp chuyên sản xuất tôm thẻ chân trắng giống như: Công ty TNHH Việt Úc, Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam để nghiên cứu, ứng dụng quy trình thuần hóa tôm thẻ chân trắng giống từ kích cỡ nhỏ (P8) lên kích cỡ lớn (P15), đảm bảo cân bằng các yếu tố môi trường trong bể ương và ao nuôi. Năm 2022, Trung tâm đã thuần hóa 3 triệu con tôm sú, 20 triệu con tôm thẻ chân trắng, 15 vạn con cua biển, 5 vạn cá giống các loại, 2,5 tỷ con nhuyễn thể, 12 nghìn chùm hàu Thái Bình Dương…
Nuôi thủy sản ở vùng nước mặn, lợ đã tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động; thu nhập và đời sống của cư dân ven biển được nâng cao, góp phần đóng góp tích cực vào sự phát triển của vùng biên giới ven biển. Thời gian tới, để nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi thủy sản nước mặn, lợ nói riêng phát triển bền vững, Sở NN và PTNT chỉ đạo các phòng NN và PTNT phối hợp với các tổ chức đoàn thể hướng dân người dân mở rộng diện tích sản xuất, tiếp cận nguồn vốn tín dụng để đầu tư cơ sở vật chất; tổ chức các lớp tập huấn phổ biến, hướng dẫn, chuyển giao các công nghệ, kỹ thuật tiến bộ về nuôi thủy sản giúp các hộ nuôi nâng cao năng suất, chất lượng con nuôi. Ngoài ra, Sở NN và PTNT cùng các cơ quan chức năng; các cơ sở nuôi thủy sản quan tâm đến những biện pháp, chính sách đầu tư phát triển, cải tạo nâng cấp hạ tầng các vùng nuôi, kêu gọi, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư vào nuôi đa dạng các đối tượng thủy sản./.
Bài và ảnh: Thanh Hoa
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin