Đại tướng LƯƠNG CƯỜNG, Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương,
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, cờ Giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử - Chiến dịch quyết chiến chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 của quân và dân ta toàn thắng.
Đây là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, đánh dấu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta kết thúc thắng lợi, thực hiện trọn vẹn tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, ý nghĩa của Chiến thắng 30-4-1975 nói riêng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) của Đảng đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.(1)
Diễu hành trong lễ kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Ảnh: PV |
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của nhiều nhân tố tạo nên sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta. Đây còn là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường, bền bỉ của nhân dân và Quân đội anh hùng. Thắng lợi đó là kết tinh của sức mạnh đoàn kết quân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh đó bắt nguồn từ bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ sáng lập, giáo dục và rèn luyện, đội quân “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sức mạnh đoàn kết quân dân là cơ sở để Đảng ta đề ra phương pháp cách mạng sáng tạo, độc đáo trong chỉ đạo chiến tranh. Đó là, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng: Lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: Quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời, biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ tổ chức những trận tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi cuối cùng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đoàn kết quân dân là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, để thực hiện tư tưởng chiến lược của Đảng, Bác Hồ kính yêu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Nền tảng đó đã được quân và dân ta không ngừng vun đắp với nhiều phương thức, cách làm sáng tạo, phong phú, phù hợp với hoàn cảnh đất nước tạm thời bị chia làm hai miền. Ở miền Bắc, các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, chi viện sức người, vũ khí trang bị kỹ thuật cho chiến trường miền Nam với tinh thần: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Nhường nhà để hàng, nhường làng để xe”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”... Trên chiến trường miền Nam, mặc dù ngụy quân, ngụy quyền và đế quốc Mỹ dùng mọi thủ đoạn chia rẽ giữa nhân dân với bộ đội, du kích, như: Dồn dân lập ấp chiến lược, đàn áp phong trào cách mạng... nhưng mối quan hệ đoàn kết quân dân luôn được củng cố, ngày càng gắn bó. Hàng nghìn, hàng vạn người mẹ, người chị không quản ngại gian khổ, hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh tính mạng để nuôi giấu bộ đội, làm giao liên, y tá... hun đúc nên ý chí “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Đó là những hình ảnh sáng ngời về tình đoàn kết quân dân, là cội nguồn của sức mạnh. Sống trong lòng nhân dân, được nhân dân che chở, giúp đỡ, nuôi dưỡng, bộ đội ta luôn phát huy truyền thống “Trung với nước, hiếu với dân”, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường với ý chí quyết chiến, quyết thắng, bảo vệ nhân dân trong từng trận chống lấn chiếm, càn quét, đánh bại các chiến dịch quy mô lớn của địch, giữ vững vùng giải phóng, chuẩn bị tốt mọi điều kiện để kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975.
Tình đoàn kết quân dân thực sự là nguồn sức mạnh vô địch của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vì nhân dân - đó là động lực mạnh mẽ thôi thúc lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ không quản ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Thực tiễn lịch sử trong các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã chứng minh và khẳng định sức mạnh của đoàn kết quân dân, nòng cốt của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bất kỳ giai đoạn nào, phải đương đầu với kẻ thù tàn bạo, nếu biết cổ vũ, động viên, quy tụ được sức mạnh toàn dân, cốt lõi là sức mạnh đoàn kết quân dân thì dân tộc ta đều giành thắng lợi vĩ đại, bảo đảm sự bền vững của độc lập, tự do, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Nhận thức sâu sắc sức mạnh đoàn kết quân dân và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng luôn nhất quán quan điểm “dân là chủ”, “lấy dân làm gốc”, nhân dân là chủ thể công cuộc xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta khẳng định: Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Qua 35 năm đổi mới, sức mạnh đoàn kết quân dân, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam ngày càng được củng cố và tăng cường. Tiềm lực, thế trận, lực lượng, cơ sở vật chất của nền quốc phòng không ngừng được củng cố, phát triển toàn diện, đồng bộ. Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; thực hiện tốt chức năng: Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Quân đội luôn gương mẫu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là lực lượng đi đầu tuyên truyền, quán triệt, thực hiện tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc; phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương; tuyên truyền, vận động nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ, phá hoại sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng và củng cố lòng tin của nhân dân với cấp ủy đảng, chính quyền các cấp; chủ động phối hợp xử lý hiệu quả các tình huống phức tạp, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Toàn quân đã nêu cao ý chí, xung kích, đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, kịp thời có mặt ở những nơi gian khổ, hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước và của nhân dân. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là những lúc khó khăn, hoạn nạn, thiên tai; sự có mặt của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là chỗ dựa vững chắc của cấp ủy, chính quyền địa phương và được nhân dân tin tưởng, yêu mến.
Quân đội luôn đi đầu trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”... Với hàng chục đoàn kinh tế - quốc phòng, hàng trăm tổ, đội công tác và cán bộ tăng cường cơ sở, những hoạt động thiết thực đó không ngừng tô thắm truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; là cội nguồn sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân đã trở thành truyền thống quý báu, là bản chất của Quân đội, tạo nên sức mạnh vô địch cho Quân đội, là cơ sở vững chắc để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy các cấp, cũng như toàn quân thực hiện tốt công tác dân vận của Đảng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Các vấn đề về an ninh truyền thống và phi truyền thống, các hành động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài nguyên tiếp tục diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tạo cớ can thiệp quân sự, đẩy mạnh thực hiện âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” bằng những thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm, thâm độc hơn... Tình hình đó đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với xây dựng và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; trong đó có sức mạnh đoàn kết quân dân, làm cơ sở tăng cường quốc phòng, xây dựng Quân đội, nhất là xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Để thực hiện yêu cầu đó, toàn quân cần chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng, củng cố đoàn kết quân dân trong tình hình mới; phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền quốc phòng toàn dân mà chúng ta xây dựng là nền quốc phòng “của dân, do dân, vì dân”, phát triển theo phương hướng: Toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; vững mạnh về chính trị; có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng, củng cố đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo; tạo điều kiện để xây dựng, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân” ở các địa bàn trọng yếu.
Ba là, cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Công tác dân vận của Quân đội phải luôn hướng về cơ sở, chú trọng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo; nội dung, hình thức phải thường xuyên được đổi mới, đa dạng, phong phú, xây dựng được nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả, nhất là đẩy mạnh Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, Quân đội tham gia xây dựng nông thôn mới, tổ chức hành quân dã ngoại làm công tác dân vận... Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các đơn vị Quân đội với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong tiến hành công tác dân vận. Cấp ủy đảng các cấp có nghị quyết chuyên đề lãnh đạo, phân công cấp ủy viên phụ trách, xây dựng quy chế, kế hoạch tổ chức thực hiện, gắn với chức trách, nhiệm vụ của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy. Thường xuyên kiện toàn cơ quan dân vận và đội ngũ cán bộ các cấp, đề cao trách nhiệm, nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt chức năng tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn về công tác dân vận trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bốn là, chủ động, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” Quân đội, chia rẽ Quân đội và nhân dân, Quân đội với Công an của các thế lực thù địch.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các luận điệu phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội”, các âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội, phủ nhận bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của Quân đội.
Tiến hành đồng bộ, toàn diện các giải pháp giữa “xây” và “chống” để bộ đội và nhân dân nhận rõ bản chất phản động, phản khoa học, tính chất nguy hại, âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Lên án, phê phán lối sống thực dụng, cá nhân chủ nghĩa, vi phạm kỷ luật, pháp luật, ảnh hưởng tới bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Quân đội.
Năm là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) trong các nhiệm vụ, trong đó cần đặc biệt coi trọng làm tốt công tác dân vận, xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân đội.
Tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận CTĐ, CTCT, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới. Hoạt động CTĐ, CTCT phải hướng vào thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Quân đội mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh; phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả CTĐ, CTCT, xây dựng sức mạnh đoàn kết quân dân chính là nhằm bảo đảm và giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của Quân đội ta./.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.37, NXB Chính trị Quốc gia-2001, tr.471.