(Tiếp theo kỳ trước)
2.4. Thời kỳ từ năm 1992 đến nay
Kể từ năm 1986, Đảng ta chủ trương tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, trong đó, tập trung đổi mới kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện phát triển mới của đất nước, Hiến pháp mới được ban hành vào năm 1992 thay thế cho Hiến pháp 1980. Đến năm 2001, một số quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung nhằm xác định rõ hơn địa vị pháp lý của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là thời kỳ Quốc hội cơ bản được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1992 và trải qua gần 5 nhiệm kỳ hoạt động. Quốc hội đã có những đổi mới cơ bản, khắc phục tính hình thức, hạn chế trong hoạt động ở các khóa Quốc hội trước và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng là cơ quan đại biểu dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.4.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định vị trí của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có ba chức năng cơ bản là lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của đất nước.
Theo Điều 84 Hiến pháp năm 1992, Quốc hội có 14 nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng như sau:
1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao;
3. Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
4. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
5. Quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước;
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, TAND, Viện KSND và chính quyền địa phương;
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện KSND Tối cao; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng Quốc phòng và An ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
Đoàn thiếu nhi Thủ đô đến chào mừng các vị đại biểu Quốc hội khóa IX trong phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, ngày 20-9-1992. Ảnh: Tư liệu |
8. Quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
9. Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TAND Tối cao và Viện KSND Tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
10. Quyết định đại xá;
11. Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước;
12. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
13. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước;
14. Quyết định việc trưng cầu ý dân.
Hiến pháp năm 1992 đã bãi bỏ quy định của Hiến pháp năm 1980 là Quốc hội có thể tự mình đặt ra những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết. Cùng với việc xác định rõ thẩm quyền của Quốc hội trong những vấn đề cụ thể, sự điều chỉnh căn bản này là phù hợp với tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền, theo đó, Quốc hội chỉ được xem xét và quyết định những vấn đề đã được Hiến pháp xác định. Trong trường hợp cần thiết cần phải tăng thẩm quyền của Quốc hội thì buộc phải sửa đổi Hiến pháp theo những trình tự và thủ tục chặt chẽ do Hiến pháp quy định.
So với Hiến pháp năm 1980, các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội trong Hiến pháp năm 1992 có một số điểm khác biệt như sau:
- Về quyền lập pháp. Tại khoản 1 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 còn bổ sung thêm quyền của Quốc hội là “quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh”.
- Về quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Hiến pháp 1992 đã có những quy định mới, làm rõ thêm thẩm quyền của Quốc hội. Ví dụ, Hiến pháp quy định: “Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; phân bổ ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra, chuyển thẩm quyền quyết định việc trưng cầu dân ý thuộc về cơ quan thường trực của Quốc hội theo quy định của Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 thành thẩm quyền của Quốc hội như Hiến pháp năm 1946 đã từng quy định; chuyển thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế chủ yếu thuộc cơ quan thường trực của Quốc hội thành nhiệm vụ của Quốc hội khi có đề nghị của Chủ tịch nước.
Đến năm 2001, Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung và có nhiều quy định mới thể hiện sự điều chỉnh lớn đáp ứng yêu cầu khẳng định vai trò của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Cụ thể là Điều 84 Hiến pháp năm 1992 bổ sung quy định Quốc hội phân bổ ngân sách Trung ương; còn việc phân bổ ngân sách địa phương thì được giao cho HĐND cấp tỉnh; Quốc hội quyết định chính sách tôn giáo; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; về quyền của Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký.
Vai trò của Quốc hội còn được tăng cường trong việc xem xét và quyết định các vấn đề về nhân sự cấp cao. Trước năm 2001, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều giao cho cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Điều khoản sửa đổi của Hiến pháp năm 1992 đã bãi bỏ thẩm quyền này của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để bảo đảm Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền quyết định nhân sự cấp cao của Nhà nước. Trong Báo cáo trình Quốc hội về vấn đề này, Uỷ ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 cho rằng đây là vấn đề quan trọng, phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội, không nên giao cho cơ quan khác thực hiện. Về mặt thời gian, mỗi năm Quốc hội họp hai kỳ, thời gian giữa hai kỳ họp không dài, do đó, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức những người giữ các chức danh này không nhất thiết phải tiến hành trong thời gian Quốc hội không họp. Như vậy, việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện KSND Tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh sau khi có Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi vào năm 2001 là hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Quốc hội, thể hiện tinh thần và mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi.
Thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước được xác định cụ thể hơn trong quá trình thực hiện. Đó là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 66/2006/QH11 ngày 29-6-2006 về dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Theo Nghị quyết này, dự án, công trình quan trọng quốc gia là dự án, công trình có một trong năm tiêu chí sau: (i) Quy mô vốn đầu tư từ hai mươi nghìn tỷ đồng Việt Nam trở lên đối với dự án, công trình có sử dụng từ ba mươi phần trăm vốn Nhà nước trở lên; (ii) Dự án, công trình có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; (iii) Dự án, công trình phải di dân tái định cư từ hai mươi nghìn người trở lên ở miền núi, từ năm mươi nghìn người trở lên ở các vùng khác; (iv) Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh hoặc có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt quan trọng về lịch sử, văn hóa; (v) Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.
Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, cụ thể hóa quy định Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, điều khoản sửa đổi của Hiến pháp năm 1992 quy định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền trực tiếp hủy bỏ những văn bản trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội còn những văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì chỉ có quyền đình chỉ và trình lên Quốc hội xem xét việc hủy bỏ trong kỳ họp gần nhất (Điều 91 khoản 5 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội còn được quy định chi tiết hơn trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội (2003).
Điểm mới so với trước đây là quy định Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định mới của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 đã cụ thể hoá điều này thành quy trình bỏ phiếu tín nhiệm gồm các bước như sau: (i) Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội về việc bỏ phiếu tín nhiệm; (ii) người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình trước Quốc hội; (iii) Quốc hội thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm.
Căn cứ để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét và trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm là phải có kiến nghị của ít nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại biểu Quốc hội hoặc kiến nghị của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Trong trường hợp không được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc đề nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức người không được Quốc hội tín nhiệm.
2.4.2. Cơ cấu tổ chức
a) Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Để phân biệt rõ chức năng của nguyên thủ quốc gia và chức năng là cơ quan thường trực của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 đã bãi bỏ chế định Hội đồng Nhà nước và tách thành hai chế định là Chủ tịch nước và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Thành phần của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội gồm có Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên. Thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. Trong Hiến pháp năm 1992 đã có gắn kết giữa hai thiết chế Chủ tịch Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi quy định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội, các ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội theo danh sách đề cử chức từng người do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa trước giới thiệu.
Như vậy, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 chỉ giống nhau về tên gọi còn thành phần là khác nhau. Trong Hiến pháp năm 1959 không có chức danh Chủ tịch Quốc hội mà Quốc hội bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký và các ủy viên của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Hơn nữa, chức năng của Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 cũng khác với chức năng của Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992. Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 đồng thời là Chủ tịch Quốc hội nên có chức năng chủ tọa các phiên họp của Quốc hội. Còn việc chủ tọa các phiên họp Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 không do Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mà do Chủ tịch đoàn thực hiện.
Hiến pháp 1992 quy định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn rất quan trọng như sau:
1. Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội;
2. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;
3. Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
4. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
5. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
6. Giám sát và hướng dẫn hoạt động của HĐND; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giải tán HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong trường hợp HĐND đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
7. Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội;
8. Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội;
9. Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
10. Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
11. Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.
Theo Hiến pháp năm 1992, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có vai trò chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Đây là điểm bổ sung quan trọng vì rằng trước đây, nhiệm vụ này chưa được quy định cho cơ quan thường trực của Quốc hội mà thuộc về Chủ tịch Quốc hội theo Hiến pháp năm 1980.
Luật Tổ chức Quốc hội 2001 bổ sung thêm quy định về nhiệm vụ của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thành lập Ban soạn thảo, phân công cơ quan thẩm tra các dự án luật, dự án pháp lệnh và cho ý kiến về các dự án này trước khi trình ra Quốc hội. Đồng thời, cũng có những quy định mới về phương thức hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội như phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên Uỷ ban tham dự.
Bên cạnh đó, về thẩm quyền ban hành các pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, theo quy định của Hiến pháp năm 1992 có thể thấy rằng, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không thể toàn quyền thực hiện quyền hạn này mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chỉ “ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. Như vậy, quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 đã có sự giới hạn nhất định.
b) Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội
Điểm mới khác so với trước đây là Hiến pháp năm 1992 xác định rõ mối quan hệ giữa chế định Chủ tịch Quốc hội với cơ quan thường trực của Quốc hội, theo đó, Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 quy định “Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội”.
Tiếp đó, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Quốc hội như sau:
1. Chủ tọa các phiên họp của Quốc hội, bảo đảm thi hành Quy chế đại biểu Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội, ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội;
2. Lãnh đạo công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; dự kiến chương trình làm việc, chỉ đạo việc chuẩn bị, triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; ký pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
3. Triệu tập và chủ tọa hội nghị Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội bàn chương trình hoạt động của Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; tham dự phiên họp của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội khi xét thấy cần thiết;
4. Giữ mối quan hệ với các đại biểu Quốc hội;
5. Chỉ đạo việc thực hiện kinh phí hoạt động của Quốc hội;
6. Chỉ đạo và tổ chức việc thực hiện công tác đối ngoại của Quốc hội; thay mặt Quốc hội trong quan hệ đối ngoại của Quốc hội; lãnh đạo hoạt động của Đoàn Quốc hội Việt Nam trong các tổ chức liên nghị viện thế giới và khu vực.
Giúp việc cho Chủ tịch Quốc hội có các Phó Chủ tịch Quốc hội, được phân công đảm nhiệm các phần việc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Số Phó Chủ tịch Quốc hội và số thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Trên thực tế, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX có 3 Phó Chủ tịch Quốc hội; trong nhiệm kỳ khóa X có 5 Phó Chủ tịch Quốc hội, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI có 3 Phó Chủ tịch Quốc hội và trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, XIII có 4 Phó Chủ tịch Quốc hội.
c) Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội là những cơ quan hiến định được quy định tại các Điều 94 và Điều 95 Hiến pháp năm 1992. Trong giai đoạn từ 1992 đến 2007 Quốc hội đã thành lập Hội đồng Dân tộc và bảy Uỷ ban của Quốc hội, bao gồm: (i) Uỷ ban Pháp luật; (ii) Uỷ ban Kinh tế và ngân sách; (iii) Uỷ ban Quốc phòng và An ninh; (iv) Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng; (v) Uỷ ban Về các vấn đề xã hội; (vi) Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường và (vii) Uỷ ban Đối ngoại. Đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, trên cơ sở Ủy ban Pháp luật, Quốc hội đã quyết định thành lập hai ủy ban là Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Kinh tế và Ngân sách cũng được tách ra thành hai ủy ban là Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách. Cơ cấu này tiếp tục được giữ đến hiện nay.
Về Hội đồng Dân tộc, kế thừa và tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng của Hội đồng Dân tộc trong hoạt động của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 quy định Hội đồng Dân tộc có các nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng như thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc; giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số; tham gia ý kiến về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương hoặc giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề dân tộc và giám sát việc thực hiện các văn bản đó; và kiến nghị với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các vấn đề về chính sách dân tộc của Nhà nước; các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan; kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước ở Trung ương và địa phương về những vấn đề có liên quan đến dân tộc thiểu số.
So với các Uỷ ban Thường trực, lĩnh vực hoạt động của Hội đồng Dân tộc có tầm bao quát rộng hơn và địa vị pháp lý của Hội đồng Dân tộc do Hiến pháp quy định, trong khi đó, Hiến pháp chỉ có điều khoản chung về thẩm quyền của các Uỷ ban. Điều này có nghĩa là việc thay đổi tên gọi, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở sửa đổi những quy định của Hiến pháp.
Điểm khác biệt nữa giữa Hội đồng Dân tộc so với các Uỷ ban của Quốc hội là Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được mời tham dự các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện các chính sách dân tộc (Điều 24 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001). Như vậy, Hội đồng Dân tộc không những chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của Quốc hội như các ủy ban thường trực mà còn được tham gia vào các hoạt động của Chính phủ, khi Chính phủ quyết định các vấn đề liên quan đến chính sách dân tộc.
Về các Uỷ ban của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 quy định các Uỷ ban của Quốc hội nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban.
Điểm mới trong Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 là đề cao ý nghĩa và vai trò của việc tăng cường mối quan hệ công tác giữa các cơ quan của Quốc hội nhất là trong việc xem xét các vấn đề chung như tài chính, ngân sách và tổ chức, nhân sự. Đó là quy định về trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội tham gia với Uỷ ban Kinh tế thẩm tra Báo cáo của Chính phủ về kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách Nhà nước, tham gia với Ủy ban Tài chính - Ngân sách phương án phân bổ ngân sách Trung ương, tổng quyết toán ngân sách Nhà nước; tham gia với Uỷ ban Pháp luật thẩm tra đề án về thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập mới, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giám sát việc thực hiện ngân sách Nhà nước thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban Phụ trách.
Đồng thời, Luật Tổ chức Quốc hội 2001 bổ sung quy định mới là Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số; nhiệm kỳ của các cơ quan này theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Về tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, một điểm mới quan trọng trong Luật Tổ chức Quốc hội 1992 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 là quy định về việc Quốc hội bầu Phó Chủ nhiệm Uỷ ban; quyết định số Phó Chủ nhiệm, uỷ viên làm việc theo chế độ chuyên trách của mỗi Uỷ ban.
Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và nghiên cứu, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban Phụ trách. Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các thành viên Chính phủ, Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện KSND Tối cao và những viên chức Nhà nước hữu quan cung cấp tài liệu hoặc đến trình bày những vấn đề mà Hội đồng hoặc Uỷ ban xem xét, thẩm tra. Khi cần thiết, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội cử các thành viên của mình đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề mà Hội đồng hoặc Uỷ ban quan tâm.
Về Uỷ ban Lâm thời, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 còn quy định khi xét thấy cần thiết, Quốc hội thành lập Uỷ ban Lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 11/2002/QH11 ngày 16-12-2002 về việc thành lập Uỷ ban Lâm thời để thẩm tra dự án Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. Uỷ ban Lâm thời này có 25 thành viên là đại biểu Quốc hội từ 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do đồng chí Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ nhiệm và hai Phó Chủ nhiệm để thẩm tra dự án Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội.
(còn nữa)