[links()]
(Tiếp theo kỳ trước)
2.3.3. Đại biểu Quốc hội
Trong giai đoạn này, nhiệm kỳ của Quốc hội được kéo dài là 5 năm. Về cơ bản, số lượng và thành phần đại biểu Quốc hội là không thay đổi so với các khoá Quốc hội trước đó. Nhiệm vụ và quyền hạn của đại biểu Quốc hội được quy định cụ thể hơn so với trước.
Về quyền miễn trừ, việc bắt giam và truy tố đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước quy định rõ chủ thể có quyền đề nghị bắt giam và truy tố đại biểu Quốc hội là Viện trưởng Viện KSND Tối cao.
Về quyền chất vấn, theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước 1981, khi Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội gửi những chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội để Chủ tịch Quốc hội chuyển cho các cơ quan hoặc người bị chất vấn. Khi đại biểu chất vấn Hội đồng Bộ trưởng thì Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng hoặc một thành viên được uỷ nhiệm của Hội đồng Bộ trưởng trả lời. Khi đại biểu chất vấn một thành viên của Hội đồng Bộ trưởng thì thành viên đó trả lời. Cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp đó của Quốc hội. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội quyết định thời gian trả lời trước Hội đồng Nhà nước hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội. Giữa hai kỳ họp Quốc hội, đại biểu Quốc hội gửi những chất vấn đến Chủ tịch Hội đồng Nhà nước để Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chuyển cho các cơ quan hoặc người bị chất vấn. Cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng Nhà nước hoặc theo quyết định của Hội đồng Nhà nước, trước Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của những cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Về việc tham gia giải quyết khiếu nại, lần đầu tiên Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã quy định cụ thể vai trò của đại biểu Quốc hội trong giải quyết khiếu nại, không chỉ có trách nhiệm nghiên cứu và chuyển đến cơ quan Nhà nước hữu quan mà còn theo dõi việc giải quyết và báo cho đương sự biết kết quả. Các cơ quan Nhà nước phải báo cho đại diện Quốc hội biết kết quả giải quyết những khiếu nại và tố cáo của nhân dân do đại biểu Quốc hội chuyển đến.
Đại biểu Quốc hội còn có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước về việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước và những vấn đề thuộc lợi ích chung. Các cơ quan Nhà nước và những người có trách nhiệm phải nghiên cứu và trả lời những kiến nghị đó của đại biểu. Theo yêu cầu của đại biểu Quốc hội, các cơ quan Nhà nước và những người có trách nhiệm phải thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức xã hội hoặc của bất cứ cá nhân nào.
Đồng chí Trường Chinh với các đại biểu dự Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII. Ảnh: Tư liệu |
Về mối quan hệ với chính quyền địa phương. Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 quy định đại biểu Quốc hội có quyền tham dự hội nghị HĐND các cấp nơi mình được bầu, có quyền phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết.
Đồng thời, Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 đã quy định cụ thể hơn về các nghĩa vụ của đại biểu Quốc hội so với Luật Tổ chức Quốc hội năm 1960. Cụ thể là đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tham gia các kỳ họp và phiên họp của Quốc hội. Đại biểu nào không thể tham gia các kỳ họp và phiên họp phải có lý do và phải báo trước cho Chủ tịch Quốc hội biết. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri. Sau mỗi kỳ họp, đại biểu Quốc hội phải tiếp xúc và báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp.
Để tăng cường mối quan hệ giữa các đại biểu của địa phương, lần đầu tiên Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 quy định về việc thành lập các Đoàn đại biểu Quốc hội, theo đó, đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương họp thành đoàn đại biểu Quốc hội địa phương và cử ra trưởng đoàn. Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động của đại biểu Quốc hội tại các đơn vị bầu cử. Các trưởng đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội giữ quan hệ với Chủ tịch Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Mỗi năm hai lần, các đoàn đại biểu Quốc hội thông báo cho Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc địa phương về hoạt động của các đại biểu Quốc hội ở địa phương.
Trên thực tế, việc hình thành Đoàn đại biểu Quốc hội có ý nghĩa thiết thực trong việc giúp các đại biểu Quốc hội trao đổi, thảo luận ý kiến về các dự án luật trước khi trình Quốc hội xem xét, quyết định; cho ý kiến về các vấn đề tổ chức kỳ họp, nhân sự… Về phía đại biểu Quốc hội, thiết chế đoàn đại biểu đóng vai trò như một cầu nối để trao đổi thông tin với các cơ quan thường trực của Quốc hội được thuận tiện hơn trong thời gian giữa hai kỳ họp của Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội còn trở thành diễn đàn để cho các đại biểu được bầu trong cùng địa phương bàn bạc, phối hợp để cùng có ý kiến chung trong việc tham gia ý kiến với chính quyền địa phương tốt hơn và có tiếng nói tập thể để phản ánh ý chí và quyền lợi của địa phương tại diễn đàn Quốc hội được tốt hơn.
2.3.4. Kết quả hoạt động
i) Quốc hội khóa VII (1981-1987)
- Bầu cử ngày 26-4-1981.
- Tổng số đại biểu: 496.
Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:
+ Công nhân: 20,16%
+ Nông dân: 18,64%
+ Trí thức: 22,17%
+ Đảng viên: 84,12%
+ Cán bộ chính trị: 24,39%
+ Dân tộc thiểu số: 14,91%
+ Quân đội: 9,87%
+ Phụ nữ: 21,776%
+ Thanh niên: 18,14%
Quốc hội khóa VII đã bầu Hội đồng Nhà nước do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước. Quốc hội đã bầu Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Quốc hội và 9 Phó Chủ tịch Quốc hội; bầu Hội đồng quốc phòng; bầu Hội đồng dân tộc và 7 ủy ban: Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban kinh tế - kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban văn hóa và giáo dục, Uỷ ban khoa học và kỹ thuật, Uỷ ban y tế và xã hội, Uỷ ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và Uỷ ban đối ngoại.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII, với 12 kỳ họp, Quốc hội đã ban hành được 10 đạo luật và 35 nghị quyết; Hội đồng Nhà nước ban hành được 15 pháp lệnh. Ngoài các đạo luật về tổ chức bộ máy Nhà nước được ban hành mới theo Hiến pháp 1980, đáng chú ý là lần đầu tiên Quốc hội đã ban hành Bộ luật Hình sự (1985) gồm 280 điều quy định về tội phạm và hình phạt; Luật Hôn nhân gia đình (1986) gồm 57 điều trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, thể hiện bước phát triển đáng kể trong hoạt động lập pháp của Quốc hội.
Quốc hội đã triển khai thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: thành lập các cơ quan Nhà nước ở Trung ương; thông qua các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; quyết định các vấn đề về việc cử và miễn nhiệm một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng...
Hoạt động giám sát cũng được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước coi trọng, tập trung về các vấn đề quản lý kinh tế - xã hội, việc thi hành Hiến pháp, pháp luật nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp đã có bước cải tiến với việc tại kỳ họp thứ 10, các đại biểu Quốc hội đã tập trung chất vấn vào việc đánh giá những sai lầm, khuyết điểm về việc thực hiện chính sách giá - lương - tiền; đồng thời đề ra những biện pháp khắc phục.
Ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ hòa bình của các dân tộc, trong hoạt động đối ngoại, Quốc hội luôn tuân thủ nguyên tắc nhất quán, ủng hộ những sáng kiến hòa bình, bảo đảm an ninh chung của nhân loại.
ii) Quốc hội khóa VIII (1987-1992)
- Bầu cử ngày 19-4-1987.
- Tổng số đại biểu: 496.
Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:
+ Công nhân: 20%
+ Nông dân: 21%
+ Trí thức: 24,9%
+ Đảng viên: 93%
+ Cán bộ chính trị: 20,2%
+ Dân tộc thiểu số: 14%
+ Quân đội: 9,9%
+ Phụ nữ: 18%
+ Thanh niên: 11,2%
Quốc hội khóa VIII là Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ quốc tế, đưa đất nước sớm ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vững bước tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Tại kỳ họp thứ nhất, từ ngày 17 đến 22-6-1987, Quốc hội đã bầu đồng chí Lê Quang Đạo làm Chủ tịch Quốc hội, 5 Phó Chủ tịch Quốc hội; thành lập Hội đồng quốc phòng, Hội đồng dân tộc và 7 uỷ ban: Uỷ ban pháp luật; Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách; Uỷ ban văn hóa và giáo dục; Uỷ ban khoa học và kỹ thuật; Uỷ ban y tế và xã hội; Uỷ ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và Uỷ ban đối ngoại.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, trong nhiệm kỳ 5 năm với 11 kỳ họp, Quốc hội đã thông qua 2 bộ luật, 25 đạo luật và Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh. Đáng chú ý là nhiều đạo luật quan trọng thể chế hóa chính sách kinh tế mới lần đầu tiên đã được ban hành, như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), mở đường cho việc đẩy mạnh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) và Luật Cty (1990) là những đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Lần đầu tiên các luật này thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền thành lập Cty và doanh nghiệp tư nhân. Quốc hội còn ban hành các luật về thuế như: Luật Thuế doanh thu, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế lợi tức, Bộ luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng. Hội đồng Nhà nước đã ban hành hàng loạt pháp lệnh điều chỉnh các mặt khác nhau của đời sống xã hội.
Tại kỳ họp thứ 5, tháng 6-1989, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp gồm 27 thành viên do đồng chí Võ Chí Công làm Chủ tịch, để tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1980 một cách cơ bản và toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa VIII xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 11 năm 1992. Kế thừa và phát triển các bản hiến pháp trước đây, ngoài việc thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tạo cơ sở pháp lý đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới.
Trong việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, Quốc hội, Hội đồng Nhà ước, Hội đồng dân tộc, các ủy ban thường trực của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã có nhiều cố gắng, quan tâm đến những vấn đề nóng bỏng, cấp bách về kinh tế - xã hội và thi hành pháp luật, nhằm nâng cao vai trò của Quốc hội, từng bước vươn lên thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân. Trong nhiệm kỳ, ngoài việc thảo luận, ra nghị quyết về các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước, Quốc hội đã xem xét, quyết định sáp nhập các bộ và thay đổi, bổ sung nhân sự cấp cao của Nhà nước. So với các nhiệm kỳ trước, cách bàn bạc và biểu quyết của Quốc hội khóa VIII được thực hiện dân chủ và cởi mở hơn, thể hiện được trách nhiệm của Quốc hội và đại biểu Quốc hội với cử tri cả nước./.
(còn nữa)