ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
*
Dự thảo Nam Định, ngày .... tháng 7 năm 2015
Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVII
tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX
(nhiệm kỳ 2015-2020)
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII trong bối cảnh có những thuận lợi cơ bản: Những thành tựu to lớn đạt được sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đã tạo động lực cho sự phát triển; Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đoàn kết, thống nhất; tình hình chính trị - xã hội ổn định; các tầng lớp nhân dân cơ bản đồng thuận với đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước và của tỉnh… Bên cạnh đó cũng còn nhiều khó khăn, thách thức: Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, đặc biệt là những căng thẳng ở Biển Đông có xu hướng gia tăng; tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu làm cho những yếu kém nội tại của nền kinh tế trong nước bộc lộ nặng nề hơn; lạm phát có thời điểm tăng khá cao, thị trường thu hẹp. Cân đối ngân sách Nhà nước khó khăn, vốn đầu tư công giảm. Tình hình khiếu kiện đã được tập trung giải quyết nhưng chưa triệt để. Hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ có mặt hạn chế. Thời tiết, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp… Trong bối cảnh đó, với tinh thần quyết tâm và chủ động, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã kế thừa thành tựu, kinh nghiệm tích luỹ của các nhiệm kỳ trước, thực hiện nghiêm túc, sáng tạo, có hiệu quả sự chỉ đạo của Trung ương; cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh bằng các nghị quyết chuyên đề; tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra.
PHẦN THỨ NHẤT
Tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII
A- KẾT QUẢ CHỦ YẾU ĐẠT ĐƯỢC
I- Về kinh tế - xã hội
1- Kinh tế của tỉnh phát triển ổn định, quy mô và hiệu quả của nền kinh tế được nâng lên
Tốc độ tăng trưởng GRDP (giá so sánh 1994) bình quân đạt 12,3%/năm, cao hơn mức bình quân (10,33%/năm) của thời kỳ 2006-2010. Tính theo giá so sánh 2010 tốc độ tăng bình quân đạt 6,2%/năm.
Cơ cấu kinh tế theo ngành và lĩnh vực tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Năm 2015, trong tổng GRDP, khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 14%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước chiếm 80%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 6%. So với năm 2010, ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng từ 70,5% lên 76% (Trong đó, công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,5% lên 41%); nông, lâm và thủy sản giảm từ 29,5% xuống còn 24%.
Lao động trong ngành nông nghiệp giảm từ 65,8% xuống còn 60,8%. Lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 18,5% lên 20,8%.
Quy mô kinh tế được mở rộng, so với thời kỳ 2006-2010: tổng GRDP gấp 2,5 lần; GRDP bình quân đầu người gấp 2,46 lần; giá trị sản xuất công nghiệp gấp hơn 2,7 lần. Thu ngân sách từ kinh tế địa phương vượt mức 2.800 tỷ đồng (năm 2010: 1.340 tỷ đồng). Vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,34 lần.
2- Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá; một số sản phẩm công nghiệp đã tạo dựng được thương hiệu và uy tín trên thị trường
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 22,3%/năm (trong đó: công nghiệp Trung ương tăng 9,1%, công nghiệp địa phương tăng 23,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 26,5%). Khu vực sản xuất công nghiệp - xây dựng đã thu hút thêm trên 22.400 lao động (trong đó có trên 10.000 lao động nông nghiệp chuyển sang). Nhiều doanh nghiệp đã vượt qua khó khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế, tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ và quản lý, mở rộng thị trường. Số doanh nghiệp thành lập mới 2.555 doanh nghiệp. Các ngành sản xuất chủ yếu đều có mức tăng trưởng khá (1).
Các khu, cụm công nghiệp tiếp tục được đầu tư, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Toàn tỉnh hiện đã có 3 khu công nghiệp đang hoạt động, tổng diện tích đất quy hoạch 590ha, tỷ lệ lấp đầy 74% (2). Giá trị sản xuất của các khu công nghiệp chiếm gần 17% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh; giá trị xuất khẩu chiếm 22% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh. Các cụm công nghiệp được đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, thu hút 459 dự án đầu tư với số vốn đã thực hiện 2.706 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 18.400 lao động. Nhìn chung các cụm công nghiệp duy trì sản xuất ổn định và có hướng phát triển tốt.
Toàn tỉnh hiện có 113 làng nghề (tăng 19 làng so với 2010, trong đó có 74 nghề và làng nghề truyền thống đã được công nhận) với trên 52.000 hộ tham gia sản xuất; hàng năm thu hút trên 130.000 lao động nông thôn.
Hoạt động khuyến công được thực hiện có hiệu quả; đã triển khai 249 chương trình, dự án với tổng vốn hỗ trợ 20,5 tỷ đồng, tập trung vào đào tạo nghề, truyền nghề mới cho gần 7.000 lao động; trình diễn kỹ thuật, khởi sự doanh nghiệp.
3- Nông nghiệp phát triển ổn định, là nền tảng quan trọng cho sự phát triển chung của tỉnh
Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân tăng 3,1%/năm. Chất lượng, hiệu quả sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi và hiệu quả sử dụng đất từng bước được nâng cao. Sản lượng lương thực bình quân hàng năm đạt 939 nghìn tấn. Giá trị sản xuất bình quân trên 1ha canh tác tăng từ 75,6 triệu đồng/ha năm 2010 lên 100 triệu đồng/ha năm 2015. Đã hình thành một số mô hình mới trong liên kết tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa theo chuỗi giá trị.
Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch tích cực: Trồng trọt giảm từ 59,7% năm 2010 xuống còn 47,3% năm 2015; chăn nuôi và dịch vụ tăng từ 40,3% lên 52,7%. Cơ cấu cây trồng được chuyển dịch sang các loại cây có giá trị kinh tế cao, hạn chế sâu bệnh. Sản xuất vụ đông được duy trì và phát triển (năm 2015 đạt 17.000ha, tăng 11,95% so với 2010). Bước đầu hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung theo mô hình “cánh đồng mẫu lớn” cho hiệu quả kinh tế cao.
Chăn nuôi phát triển theo hướng chăn nuôi trang trại, gia trại quy mô vừa và nhỏ, đảm bảo an toàn dịch bệnh. Số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ giảm từ 85% năm 2010 xuống còn 60% năm 2015. Toàn tỉnh có 3.998 trang trại, gia trại trong đó có 674 trang trại đạt tiêu chí mới. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng hàng năm tăng nhanh, năm 2015 ước đạt 154.000 tấn, tăng 21,93% so với năm 2010.
Thuỷ sản tiếp tục phát triển; giá trị tăng bình quân 7,3%/năm. Nuôi trồng thủy sản chuyển dần từ quảng canh sang thâm canh, hình thành các vùng nuôi tập trung. Khai thác thủy sản được duy trì và từng bước nâng cao năng lực khai thác xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Triển khai tích cực chương trình trồng, bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng ngập mặn, góp phần quan trọng bảo vệ đa dạng sinh học và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Sản xuất muối được duy trì ổn định hàng năm với diện tích khoảng 600ha, sản lượng bình quân đạt 65 nghìn tấn/năm, đáp ứng cơ bản nhu cầu muối cho sản xuất, tiêu dùng.
Kinh tế hợp tác xã tiếp tục được củng cố, từng bước khẳng định vai trò trong tổ chức sản xuất ở nông thôn. Nhiều hợp tác xã cân đối được thu chi và kinh doanh có lãi. Ban nông nghiệp xã đã làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền cấp xã định hướng xây dựng kế hoạch, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.
4- Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai quyết liệt và đồng bộ, trở thành phong trào quần chúng sâu rộng và hiệu quả, làm thay đổi diện mạo nông thôn, thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần nâng cao đời sống người dân
Xác định xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã tập trung chỉ đạo kiện toàn ban chỉ đạo các cấp; khảo sát đánh giá hiện trạng nông thôn, xây dựng đề án phù hợp với điều kiện của địa phương; xác định rõ lộ trình, bước đi cụ thể; chọn và triển khai thành công khâu đột phá là dồn điền đổi thửa, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp; ban hành nhiều cơ chế hỗ trợ, khuyến khích sản xuất và đầu tư. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò của chi bộ Đảng, của thôn xóm, vai trò chủ thể của hộ gia đình trong xây dựng nông thôn mới. Với phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, bước đầu chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn toàn tỉnh đã đạt được kết quả quan trọng. Sau 5 năm triển khai, các địa phương trong tỉnh đã huy động được gần 10 nghìn tỷ đồng, nhân dân đã góp 2.920ha đất nông nghiệp và hiến gần 200ha đất thổ cư làm giao thông nông thôn, giao thông, thuỷ lợi nội đồng. Trong 96 xã xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015 đã có 74 xã đạt chuẩn, 22 xã cơ bản đạt chuẩn. Huyện Hải Hậu được Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới năm 2015. Nam Định được Trung ương đánh giá là một trong 5 địa phương dẫn đầu cả nước về xây dựng nông thôn mới.
5- Các ngành dịch vụ tăng trưởng khá, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân
Giá trị dịch vụ tăng bình quân 12,1%/năm. Sản phẩm dịch vụ được tăng cường cả số lượng và chất lượng. Cung cầu hàng hóa cơ bản bảo đảm, đã hạn chế các hiện tượng tăng giá đột biến. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng bình quân 19%/năm. Hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh; bước đầu triển khai chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài tỉnh.
Hoạt động xuất khẩu phát triển nhanh; tổng giá trị hàng xuất khẩu ước đạt 1.000 triệu USD, tăng bình quân 21,7%/năm; giá trị xuất khẩu bình quân đầu người đạt 540 USD, gấp gần 4 lần so với năm 2010. Tổng giá trị hàng nhập khẩu ước đạt 800 triệu USD, tăng bình quân 19,5%/năm; mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất.
Kết cấu hạ tầng thương mại, du lịch được đầu tư nâng cấp; hình thành một số siêu thị, trung tâm thương mại - dịch vụ lớn, góp phần ổn định giá cả, cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Số lượng khách du lịch hàng năm tăng bình quân 6%/năm; doanh thu du lịch tăng bình quân 14%/năm. Dịch vụ vận tải phát triển nhanh; đã hình thành các tuyến vận tải đến khắp mọi miền của đất nước; chất lượng phương tiện và thái độ phục vụ từng bước được nâng lên. Dịch vụ vận tải hành khách tăng trưởng bình quân 8%/năm và vận tải hàng hoá tăng 10%/năm. Dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc trên địa bàn. Tổng doanh thu viễn thông tăng bình quân 18%/năm.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan, đơn vị có nhiều chuyển biến tích cực. 100% cơ quan hành chính Nhà nước có mạng LAN. Đã đưa cổng thông tin điện tử, trung tâm tích hợp dữ liệu và hệ thống thư điện tử của tỉnh vào hoạt động, góp phần nâng cao hiệu quả công tác và cải cách thủ tục hành chính của các ngành, địa phương trong tỉnh.
6- Hoạt động tài chính, ngân hàng hoàn thành các chỉ tiêu Đại hội XVIII đề ra
Thu ngân sách từ kinh tế địa phương tăng nhanh; tổng thu 5 năm 2011-2015 ước 11.300 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng bình quân 13%/năm. Tổng chi ngân sách địa phương trong 5 năm ước 51.240 tỷ đồng, tăng bình quân 12,5%/năm. Công tác điều hành tài chính đảm bảo đúng quy định của pháp luật; thực hiện kịp thời các chính sách giãn, hoãn, miễn, giảm thuế nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp duy trì, ổn định sản xuất kinh doanh. Chi ngân sách cơ bản đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu chi thường xuyên, thực hiện chính sách an sinh xã hội và các nhiệm vụ chính trị khác.
Các tổ chức tín dụng tiếp tục phát triển(3). Nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng tăng bình quân 19,8%/năm, gấp 2,4 lần so với năm 2010. Dư nợ cho vay gấp 1,9 lần so với năm 2010, tốc độ tăng bình quân 14,3%/năm; tỷ lệ nợ xấu trong phạm vi cho phép.
7- Tích cực huy động các nguồn vốn cho đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội. Hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình hạ tầng trọng điểm, góp phần cải thiện vị thế địa kinh tế, tạo diện mạo mới, tác động lâu dài tới sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Trong 5 năm, hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, đô thị được tập trung đầu tư. Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội đạt 108.900 tỷ đồng, gấp 2,91 lần so với giai đoạn 2006-2010; trong đó đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng 42%. Nhiều công trình trọng điểm của tỉnh đã được hoàn thành, đưa vào sử dụng như: Tuyến đường bộ mới Nam Định - Phủ Lý, Quốc lộ 21 đoạn Nam Định - Thịnh Long, Tỉnh lộ 490C từ Thành phố Nam Định - Đông Bình, Tỉnh lộ 489 từ Vườn quốc gia Xuân Thủy đến thị trấn Xuân Trường, Quốc lộ 37B, Quốc lộ 38B, Tỉnh lộ 485; nâng cấp cải tạo 4.982km đường giao thông nông thôn. Hoàn thành đầu tư nâng cấp 64,7/91,5km đê biển, trên 28km kè đê sông; bê tông hóa 120km mặt đê, xây dựng 50 cống qua đê; kiên cố hóa gần 1.000km kênh cấp 1, 2, 3, đã góp phần tích cực phục vụ sản xuất nông nghiệp và phòng chống thiên tai. Đầu tư thêm 3 trạm biến áp 110KV; nâng cấp mạng lưới điện hạ thế nông thôn; cải thiện rõ rệt chất lượng điện áp, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Các công trình văn hoá - xã hội như: Cung thể thao Nam Định, khu nhà ở sinh viên, 3.149 phòng học, 11 bệnh viện đa khoa tuyến huyện và một số bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh đã được tập trung đầu tư nâng cấp.
8- Các vùng kinh tế của tỉnh được xác định đúng trọng tâm, trọng điểm đầu tư, tập trung chỉ đạo quyết liệt, tạo được bước phát triển mới
8.1- Vùng kinh tế biển
Đã bổ sung quy hoạch chung, trong đó trọng tâm là quy hoạch xây dựng Khu kinh tế Ninh Cơ; ưu tiên đầu tư nâng cấp Thị trấn Thịnh Long lên đô thị loại 4. Tập trung chỉ đạo hoàn thành một số công trình kết cấu hạ tầng giao thông quan trọng kết nối với các vùng trong tỉnh và các tỉnh bạn. Tiếp tục đầu tư hạ tầng Vườn quốc gia Xuân Thủy và các khu du lịch Thịnh Long, Quất Lâm; cải thiện, nâng cao chất lượng kinh doanh du lịch, dịch vụ tại các khu du lịch biển. Xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để khởi công xây dựng một số dự án lớn: Đường trục phát triển kết nối vùng kinh tế biển Nam Định với đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình, cầu Thịnh Long, Trung tâm nhiệt điện, khu công nghiệp dệt may Rạng Đông...
Lĩnh vực thủy sản tăng trưởng khá cả về nuôi trồng, đánh bắt và chế biến. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt trên 10.452ha. Các cơ sở sản xuất giống thủy sản cơ bản đáp ứng nhu cầu về giống cho sản xuất đại trà.
Vùng kinh tế biển đang từng bước hình thành vùng động lực quan trọng cho phát triển kinh tế của tỉnh, hàng năm tạo ra 28,5% GRDP và 9% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh.
8.2- Vùng sản xuất nông nghiệp
Có sự phát triển toàn diện trên cả ba lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân; bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. Chương trình xây dựng nông thôn mới tạo ra những thay đổi quan trọng về cơ cấu kinh tế, quy mô sản xuất, nâng cao trình độ, năng lực sản xuất của nông dân.
Hiệu quả sản xuất nông nghiệp được nâng lên; đã hình thành các điều kiện cần thiết cho sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp như tích tụ ruộng đất, xây dựng các trang trại, gia trại, khu sản xuất chuyên canh, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, ra đời các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân, bước đầu tạo được chuỗi giá trị sản xuất trong nông nghiệp.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, làng nghề có bước phát triển mạnh. Trong vùng hiện có 14 cụm công nghiệp được đầu tư xây dựng hạ tầng và đi vào sản xuất, thu hút nhiều lao động nông thôn.
Vùng kinh tế nông nghiệp là nền tảng ổn định vững chắc cho phát triển kinh tế của tỉnh, hàng năm tạo ra 44% GRDP toàn tỉnh.
8.3- Trung tâm công nghiệp - dịch vụ Thành phố Nam Định
Hoàn thành vượt kế hoạch về thời gian việc nâng cấp Thành phố Nam Định lên đô thị loại I trực thuộc tỉnh (được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận từ cuối năm 2011). Công tác quản lý đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị ngày càng tốt hơn. Tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, kết hợp với chỉnh trang đô thị. Các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố đã trở thành động lực thúc đẩy sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh. Hệ thống thương mại dịch vụ đa dạng, theo hướng văn minh, hiện đại được hình thành. Các cơ sở giáo dục, bệnh viện, khu giải trí, thể thao và các công trình văn hoá - xã hội khác trên địa bàn được quan tâm đầu tư xây dựng… Thành phố Nam Định đang từng bước hình thành một số chức năng trung tâm của vùng Nam đồng bằng sông Hồng.
Trung tâm công nghiệp - dịch vụ Thành phố Nam Định đã đóng góp 27,5% GRDP, 48% giá trị sản xuất công nghiệp, 40% giá trị dịch vụ của toàn tỉnh…
9- Lĩnh vực văn hoá - xã hội được quan tâm chăm lo, đạt được nhiều thành tích mới
9.1- Ngành Giáo dục và Đào tạo đã chú trọng phát triển toàn diện cả quy mô và chất lượng; 21 năm liên tục ngành được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Cờ thi đua “Đơn vị tiêu biểu xuất sắc”.
Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường mầm non đạt 97,8%; toàn tỉnh đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở được tuyển vào học lớp 10 các loại hình hàng năm đạt trên 82%.
Chất lượng giáo dục tiếp tục được nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT, học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia và điểm thi bình quân vào đại học, cao đẳng luôn trong tốp các tỉnh dẫn đầu toàn quốc. Công tác giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, giáo dục thể chất cho học sinh được quan tâm. Hệ thống đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục phát triển(4).
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên từng bước được nâng cao trình độ. Cơ sở vật chất trường học được quan tâm đầu tư theo hướng chuẩn quốc gia. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập phát triển rộng khắp và ngày càng hiệu quả hơn.
9.2- Hoạt động khoa học và công nghệ: Đã triển khai toàn diện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khoá XI) về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".
Công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống đã đạt được những kết quả tích cực. Thực hiện trên 150 đề tài, dự án khoa học công nghệ, trong đó tập trung nghiên cứu các đề tài nhằm cung cấp luận cứ cho việc điều hành phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan, địa phương, đơn vị. Áp dụng và duy trì việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 cho các cơ quan trong tỉnh. Tiếp nhận công nghệ mới sản xuất một số giống thủy sản, cây trồng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý và xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Việc phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã trở thành phong trào thường xuyên trong tỉnh.
9.3- Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều chuyển biến. Hệ thống các cơ sở y tế từng bước được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới (5). Hệ thống y tế công lập cùng với các cơ sở y tế tư nhân đã góp phần đáp ứng bước đầu nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Đến năm 2015, trung bình toàn tỉnh có 5,93 bác sỹ và 23 giường bệnh/1 vạn dân.
Các cơ sở y tế triển khai đầu tư thêm nhiều trang thiết bị y tế hiện đại; tiếp nhận, chuyển giao hàng trăm kỹ thuật mới giữa các tuyến y tế Trung ương, tỉnh, huyện góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Chủ động triển khai công tác y tế dự phòng, không để dịch bệnh lây lan ra diện rộng. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai thực hiện có hiệu quả. Năm 2015, có 60% số xã, phường, thị trấn đạt “Bộ tiêu chí quốc gia” về y tế giai đoạn 2011-2020. Tập trung chỉ đạo Đề án bảo hiểm y tế toàn dân, nâng độ bao phủ bảo hiểm y tế của tỉnh từ 43% năm 2011 lên 70% năm 2015.
Công tác truyền thông dân số kế hoạch hoá gia đình được duy trì với nhiều hình thức phong phú, có chiều sâu. Các đề án nâng cao chất lượng dân số, kiểm soát dân số, nhất là vùng biển, vùng đồng bào có đạo bước đầu có hiệu quả.
9.4- Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, báo chí tiếp tục phát triển
Các hoạt động văn hoá, văn học - nghệ thuật đáp ứng ngày càng tốt hơn định hướng chính trị tư tưởng của Đảng và nhu cầu của nhân dân. Đã tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 750 năm Thiên Trường - Nam Định. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của quê hương và con người Nam Định được giữ gìn, phát huy.
Hệ thống các di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật được kiểm kê, xếp hạng, trong đó có 01 di tích quốc gia đặc biệt, 9 di tích quốc gia, 2 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đặc biệt Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đang được đề nghị UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Công tác quản lý các lễ hội truyền thống được quan tâm chỉ đạo, một số lễ hội những năm gần đây đã đi vào nề nếp hơn.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” gắn với thực hiện phong trào toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, xây dựng văn minh đô thị và thực hiện chiến lược “Xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam tỉnh Nam Định giai đoạn 2011-2015” đạt được những kết quả tích cực (6).
Hoạt động thể dục, thể thao tiếp tục phát triển, nhất là phong trào thể thao quần chúng. Số người thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao ngày càng tăng. Lĩnh vực thể thao thành tích cao được duy trì. Đoàn thể thao Nam Định đã đạt kết quả tốt khi tham gia thi đấu các giải thể thao thành tích cao trong nước và quốc tế. Việc đầu tư và mở rộng cơ sở vật chất cho các hoạt động thể thao được xã hội hóa, từng bước đáp ứng yêu cầu tập luyện của nhân dân. Tỉnh đã đăng cai tổ chức thành công Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VII năm 2014.
Công tác quản lý báo chí được tăng cường. Báo Nam Định, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh tích cực đổi mới nội dung, hình thức, tăng kỳ phát hành và thời lượng phát sóng, cơ bản đáp ứng định hướng tuyên truyền của cấp ủy và nhu cầu thông tin của nhân dân. Kênh truyền hình NTV của tỉnh được phát sóng trên vệ tinh Vinasat từ năm 2013, thời lượng phát sóng đạt 24 giờ/ngày với nhiều chương trình được đổi mới.
9.5- Công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo và an sinh xã hội có chuyển biến tích cực
Đã giải quyết việc làm cho trên 150,7 ngàn lượt người (trong đó có 11,9 ngàn người đi lao động ở nước ngoài), bình quân mỗi năm tạo được 30 ngàn việc làm mới. Hệ thống các trường đào tạo nghề được củng cố với 38 cơ sở dạy nghề có quy mô đào tạo ở 3 cấp trình độ (cao đẳng, trung cấp, sơ cấp) đào tạo trên 30,2 ngàn lượt người/năm. Chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn đạt kết quả bước đầu; bình quân hàng năm có từ 7.000-8.000 lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo các ngành nghề mới, tỷ lệ có việc làm sau đào tạo đạt 80%. Các chương trình cho vay vốn giải quyết việc làm, đi xuất khẩu lao động, cho học sinh, sinh viên được triển khai hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm và an sinh xã hội.
Triển khai kịp thời các chính sách ưu đãi, hỗ trợ người nghèo, cận nghèo về y tế, giáo dục, dạy nghề. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,9% năm 2010 xuống 2,5% năm 2015.
Các chế độ, chính sách xã hội với người dân, nhất là đối với các gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công được thực hiện đầy đủ và kịp thời. Phong trào đền ơn đáp nghĩa được duy trì và phát triển. Các hoạt động bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, được mở rộng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
10- Công tác quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường đạt nhiều kết quả
Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 17-7-2012 về việc tăng cường lãnh đạo công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn tỉnh, tạo chuyển biến bước đầu trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Hoàn thành phê duyệt và triển khai thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2020, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2015 từ cấp tỉnh đến cấp xã làm cơ sở thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tập trung chỉ đạo hoàn thành dồn điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp, bình quân số thửa giảm từ 3,2 thửa xuống còn dưới 2 thửa/hộ; tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung. Toàn tỉnh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 97,3% hộ gia đình và cá nhân; 60,3% cơ quan, tổ chức, cơ sở tôn giáo. Công tác giải phóng mặt bằng, thu hồi đất có chuyển biến tốt hơn, nhất là việc vận động nhân dân tự nguyện hiến đất làm các công trình hạ tầng giao thông và xây dựng nông thôn mới. Duy trì thường xuyên hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư. Toàn tỉnh đã đầu tư xây dựng 116 bãi chôn lấp xử lý rác thải tập trung tại 111 xã/thị trấn (90 bãi đã đi vào hoạt động), 190/204 xã, thị trấn đã tổ chức thu gom rác thải sinh hoạt, đạt tỷ lệ 74%. Triển khai thí điểm mô hình xử lý rác thải bằng phương pháp lò đốt ở một số xã, từng bước đánh giá để mở rộng mô hình trong toàn tỉnh.
II- Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
1- Công tác chính trị, tư tưởng trong Đảng bộ luôn được coi trọng, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TU “về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng bộ trong tình hình hiện nay”. Tổ chức quán triệt kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Đảng theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp tình hình thực tế ở địa phương, đơn vị, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng việc xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Tỉ lệ đảng viên tham gia học tập nghị quyết ở các cấp đạt bình quân 85-90%. Công tác tuyên truyền đảm bảo đúng định hướng và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy định “về cung cấp, tiếp nhận và xử lý thông tin báo chí” nhằm định hướng nội dung tuyên truyền và xử lý kịp thời các thông tin báo chí phản ánh; tổ chức hội nghị giao ban báo chí hàng tháng. Định kỳ hàng quý tổ chức hội nghị cung cấp thông tin chuyên đề cho đội ngũ cán bộ chủ chốt đương chức và đã nghỉ hưu của tỉnh. Chủ động chỉ đạo các ngành, địa phương triển khai thực hiện tốt các giải pháp đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá; tạo sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ban hành và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay”(7).
Việc nghiên cứu biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử, truyền thống của địa phương, ngành được các cấp quan tâm. Đã có 16/16 Đảng bộ huyện, thành và trực thuộc, 5/6 đoàn thể ở tỉnh, 223/229 xã, phường, thị trấn xuất bản lịch sử địa phương, ngành. Bước đầu đưa nội dung giảng dạy lịch sử Đảng bộ địa phương vào chương trình chính khoá và nhiều hoạt động ngoại khoá khác của các trường phổ thông trong tỉnh.
2- Công tác tổ chức cán bộ và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng có nhiều chuyển biến hơn
Bám sát nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng bộ đã tập trung xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là trong cấp ủy, trên cơ sở Điều lệ Đảng, quy chế làm việc của các cấp ủy; đảm bảo đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đã triển khai cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về công tác cán bộ để triển khai thực hiện thống nhất trong toàn Đảng bộ.
Công tác tổ chức bộ máy và cán bộ của hệ thống chính trị từng bước được đổi mới trên cơ sở đảm bảo đúng quy định, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ và tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ các cấp; cơ bản đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ. Cấp ủy các cấp đang tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết về “Nâng cao chất lượng cán bộ xã, phường, thị trấn từ năm 2011-2015 và những năm tiếp theo”. Qua 5 năm thực hiện bước đầu đã xây dựng được đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn đề ra. Việc rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ hàng năm ở các cấp, các ngành được thực hiện nghiêm túc, cơ bản đảm bảo yêu cầu. Các khâu tuyển chọn, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ được triển khai đồng bộ. Cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp được đề bạt bổ nhiệm đảm bảo tiêu chuẩn, thực hiện đúng quy trình, dân chủ, khách quan; nhìn chung đều hoàn thành nhiệm vụ, chức trách được giao(8).
Chế độ sinh hoạt cấp ủy, chi bộ được duy trì nền nếp. Đã kết hợp linh hoạt giữa nội dung thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng. Tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng được coi trọng; dân chủ trong Đảng được thực hiện tốt hơn. Công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện đảng viên được chú trọng, nhất là việc phân công nhiệm vụ, thực hiện đăng ký làm theo tấm gương đạo đức, phong cách của Bác Hồ và thực hiện kế hoạch sửa chữa sau kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI). Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên có đổi mới, có tính chiến đấu và xây dựng hơn. Tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng năm đạt trên 93%, đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt trên 84%.
Công tác phát triển đảng viên được coi trọng, nhất là khâu bồi dưỡng, tạo nguồn từ đội ngũ công nhân và trí thức trẻ, người trực tiếp lao động, sản xuất, lực lượng vũ trang. Bình quân hàng năm kết nạp được 2.500 đảng viên mới.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm, đặc biệt trong các khâu bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, trong dịp bầu cử các cấp. Thực hiện tốt các chính sách cán bộ theo quy định (9).
3- Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, đúng quy định của Điều lệ Đảng có tác dụng giáo dục, ngăn chặn và phòng ngừa, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tỉnh ủy đã chỉ đạo rà soát, sửa đổi, ban hành Quy trình kiểm tra, giám sát, Quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra với các cơ quan liên quan, ban hành nghị quyết chuyên đề về kiểm tra, giám sát. Cấp ủy, tổ chức Đảng, ủy ban kiểm tra các cấp đã xây dựng và thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, hàng năm phù hợp với tình hình của từng địa phương, đơn vị. Nội dung kiểm tra, giám sát đã tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm của cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể; các lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm như quản lý, sử dụng đất đai, tài chính; việc thực hiện các chính sách xã hội, công tác cán bộ…(10)
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã kịp thời uốn nắn những lệch lạc, khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, ngăn chặn và phòng ngừa tình trạng vi phạm kỷ luật của tổ chức Đảng và đảng viên.
4- Công tác dân vận, hoạt động của MTTQ và các đoàn thể có nhiều cố gắng góp phần phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng; phát huy dân chủ, ý thức tự lực, tự cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội, huy động sức mạnh của các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
4.1- Công tác dân vận đã kịp thời nắm bắt tình hình cơ sở, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó tham gia giải quyết có hiệu quả những vấn đề phức tạp, bức xúc, góp phần ổn định tình hình ngay từ cơ sở, tạo không khí dân chủ, tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân với Đảng. Đã triển khai quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XI) “về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở; ban hành “Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”, ban hành Chỉ thị số 12-CT/TU “về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Đã tiến hành sơ kết 3 năm, 5 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XVII) về “nâng cao chất lượng công tác dân vận, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với hoạt động của MTTQ và các đoàn thể xã, phường, thị trấn”. Các cơ quan Nhà nước đã chú trọng hơn công tác vận động, thuyết phục khi giải quyết công việc của công dân trên cơ sở quy định của pháp luật, đồng thời tăng cường đối thoại với nhân dân, bước đầu khắc phục lối làm việc quan liêu, nhũng nhiễu, xa dân. Các chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận và các đoàn thể ở cơ sở được quan tâm, phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh.
4.2- Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân chủ trong xã hội; chất lượng các tổ chức cơ sở được nâng lên rõ rệt. Công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân được duy trì thường xuyên. Chú trọng hướng về cơ sở, động viên đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phong trào xây dựng nông thôn mới. Các hoạt động nhân đạo, từ thiện được thực hiện thường xuyên.
Mặt trận Tổ quốc các cấp đã tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; phối hợp tổ chức nhiều hoạt động xã hội, tham gia xây dựng chính quyền; bước đầu đã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện quy chế giám sát và phản biện xã hội. Đã phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng, củng cố mối quan hệ đoàn kết giữa các tôn giáo, vận động đồng bào các tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, chấp hành pháp luật.
Liên đoàn Lao động các cấp đã chú trọng giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tác phong công nghiệp cho đội ngũ công nhân, lao động. Tăng cường phối hợp thanh, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật liên quan của các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động. Tổ chức đối thoại giữa người lao động với chính quyền, chủ sử dụng lao động để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người lao động. Trong nhiệm kỳ, đã thành lập mới 161 công đoàn cơ sở với 29.738 đoàn viên, nâng tổng số công đoàn cơ sở lên 1.815 với 86.772 đoàn viên.
Hội Liên hiệp Phụ nữ tiếp tục mở rộng các hình thức tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về công tác phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới. Các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ phụ nữ nghèo phát triển kinh tế, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc được các cấp hội hưởng ứng tích cực. Trong nhiệm kỳ, đã kết nạp 26.872 hội viên mới, nâng tổng số lên 396.231 hội viên trong toàn tỉnh, đạt tỷ lệ thu hút 76,6%.
Hội Nông dân tích cực tuyên truyền, phổ biến nâng cao kiến thức pháp luật, khoa học kỹ thuật cho nông dân; vận động nông dân giúp nhau khắc phục khó khăn để phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, giúp nhau giảm nghèo, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới… Tham gia xây dựng được 156 mô hình "Cánh đồng mẫu lớn". Phát triển mới 32.781 hội viên, nâng tổng số lên 340 nghìn hội viên.
Hội Cựu chiến binh các cấp làm tốt công tác vận động cựu chiến binh gìn giữ, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; gương mẫu thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hăng hái thi đua phát triển kinh tế, tham gia tích cực vào xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền, thực hiện quy chế dân chủ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Tổ chức Hội luôn được củng cố, xây dựng và phát triển. Trong nhiệm kỳ, đã phát triển thêm 12 hội cơ sở và kết nạp mới 19.428 hội viên. Tỷ lệ thu hút hội viên đạt 94,7%. Có 97% hội cơ sở đạt trong sạch, vững mạnh. 100% xã, phường, thị trấn có ban liên lạc cựu quân nhân với 3.227 câu lạc bộ.
Công tác Đoàn và phong trào thanh niên có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ. Đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực cho đoàn viên, thanh, thiếu niên, học sinh, sinh viên theo từng chủ đề trọng tâm do Trung ương Đoàn phát động. Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên được coi trọng và thực hiện có hiệu quả; chất lượng các phong trào thi đua, tình nguyện của tuổi trẻ được nâng lên. Đội ngũ cán bộ Đoàn được trẻ hóa và chuẩn hóa. Toàn tỉnh có 102.289 đoàn viên, trong 5 năm đã kết nạp 90.009 đoàn viên mới; tỷ lệ thu hút thanh niên đạt 75,5%, có 85,38% tổ chức Đoàn cơ sở vững mạnh.
Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp đã bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ và quy định điều lệ của tổ chức mình góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
5- Công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng được quan tâm lãnh đạo và triển khai thực hiện tích cực. Đã thành lập Ban Nội chính Tỉnh uỷ theo sự chỉ đạo của Trung ương; ban hành Quy định về sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đối với công tác nội chính, Quy chế phối hợp giữa Ban Nội chính Tỉnh ủy với một số cơ quan chức năng trong công tác nội chính, phòng chống tham nhũng. Hoạt động của Ban Nội chính sau khi được thành lập từng bước đi vào nền nếp, tham mưu xử lý hiệu quả một số vấn đề phát sinh trong công tác nội chính.
Đã chủ động triển khai đồng bộ các nội dung của chiến lược cải cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Các cơ quan nội chính chủ động tăng cường phối hợp công tác, chú trọng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và hiệu quả giải quyết công việc. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được tích cực chỉ đạo nên bước đầu hạn chế các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp. Cơ quan thanh tra các cấp đã tiến hành 1.236 cuộc thanh tra, tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực được dư luận xã hội quan tâm như: công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý, sử dụng đất đai, tài chính, ngân sách, các chương trình mục tiêu quốc gia trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế. Các cuộc thanh tra đều có kết luận và xử lý sau kết luận thanh tra nghiêm túc, minh bạch, góp phần ổn định tình hình.
Tỉnh ủy đã chỉ đạo triển khai kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020 với các giải pháp đồng bộ từ tuyên truyền giáo dục đến các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý vi phạm. Đã ban hành Chỉ thị “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản”. Trong 5 năm trên địa bàn tỉnh có 22 vụ việc tham nhũng đã được các cơ quan tư pháp tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, bước đầu có tác dụng hạn chế tiêu cực trong các cơ quan quản lý và đội ngũ công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
6- Kết quả thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
6.1- Các cấp ủy Đảng đã xây dựng kế hoạch thực hiện, tổ chức quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng bộ và tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa và nội dung của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá XI); coi đây là một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong Đảng. Đã triển khai chặt chẽ các bước theo hướng dẫn của Trung ương, đặc biệt là việc kiểm điểm và xây dựng kế hoạch khắc phục sửa chữa khuyết điểm sau kiểm điểm từ tỉnh đến cơ sở.
Quá trình kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể, cá nhân ở các cấp, các ngành được triển khai nghiêm túc với tinh thần xây dựng, chân thành, thẳng thắn. Những hạn chế khuyết điểm đã được kiểm điểm sâu sắc và làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân. Kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã được Bộ Chính trị kết luận cơ bản đạt yêu cầu. 16/16 Ban thường vụ cấp huyện được Tỉnh uỷ đánh giá cơ bản đạt yêu cầu. 100% Đảng bộ cơ sở được xác định kiểm điểm cơ bản đạt yêu cầu.
Sau kiểm điểm, các tổ chức Đảng trong tỉnh đều xây dựng kế hoạch khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, hạn chế với những giải pháp cụ thể.
Kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), đã tạo được những chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng Đảng và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tiếp tục được đổi mới. Ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác tuyên truyền, báo chí, giáo dục lý luận... góp phần ngăn chặn, từng bước đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Các khâu trong công tác tổ chức, cán bộ từ tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, đánh giá nhận xét, quy hoạch đến luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ… được quan tâm, nề nếp hơn. Mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đặc biệt vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu được xác định rõ hơn. Cơ chế lãnh đạo của cấp uỷ đối với chính quyền và các đoàn thể từng bước được hoàn thiện, đảm bảo nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, năng động của chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Cấp uỷ, chính quyền các cấp đã chỉ đạo giải quyết cơ bản dứt điểm những vấn đề bức xúc, nhạy cảm có ý kiến đóng góp, đề nghị của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong dịp kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết; đồng thời tập trung triển khai thực hiện có kết quả một số nhiệm vụ, dự án trọng điểm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
6.2- Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện gắn kết với quá trình kiểm điểm, khắc phục khuyết điểm sau kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) có chuyển biến tích cực. Tỉnh uỷ đã ban hành kế hoạch cả nhiệm kỳ, kế hoạch hàng năm thực hiện Chỉ thị. Đã triển khai toàn diện cả 8 nhóm nội dung của Chỉ thị, trong đó tập trung việc tổ chức học tập các chuyên đề; xây dựng chuẩn mực đạo đức của tập thể và đăng ký phấn đấu của từng cá nhân; tuyên truyền, biểu dương các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác. Quá trình chỉ đạo thực hiện đã chú trọng việc “làm theo” gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI), Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý… Kết quả thực hiện Chỉ thị đã bước đầu tạo được những chuyển biến về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Việc “làm theo” đã có những tác dụng nhất định, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng công tác và đổi mới phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức.
7- Công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp có trọng tâm, trọng điểm tạo được chuyển biến rõ rệt
Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới trong nội dung và phương thức hoạt động nhất là trong công tác giám sát chuyên đề, chuẩn bị các báo cáo thẩm tra, tiếp công dân và phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri. Thông qua thí điểm không tổ chức HĐND huyện, phường đã rút ra một số vấn đề cả về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào quá trình xây dựng Luật về chính quyền địa phương và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND.
Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Chính phủ, cụ thể hoá các Nghị quyết của cấp uỷ, Hội đồng nhân dân trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Đã xác định các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo như: Xây dựng nông thôn mới, hệ thống giao thông, các dự án quan trọng trên các lĩnh vực... Thực hiện tốt quy chế phối hợp công tác với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được kiện toàn, từng bước nâng cao về trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Công tác cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính được quan tâm chỉ đạo tích cực. Đã ban hành và thực hiện bước đầu có hiệu quả Kế hoạch cải cách hành chính Nhà nước tỉnh Nam Định giai đoạn 2011-2015(11). Chỉ số cải cách hành chính của tỉnh được cải thiện.
Công tác thi đua, khen thưởng có chuyển biến. Các phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới” được tổ chức sâu rộng, đạt được nhiều kết quả quan trọng, tác dụng tốt đến tư tưởng, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo được chủ động, linh hoạt, phù hợp với tình hình, đặc điểm các tôn giáo của tỉnh. Đã thành lập Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo của tỉnh để thống nhất chỉ đạo và tham mưu xử lý công việc liên quan đến hoạt động tôn giáo. Các hoạt động, sinh hoạt tôn giáo cơ bản tuân thủ quy định pháp luật; quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân được đảm bảo.
III- Về quốc phòng, an ninh
1- Quán triệt, thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Trung ương về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các lực lượng vũ trang trong tỉnh đã tham mưu và làm nòng cốt xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, triển khai nghiêm túc các cuộc diễn tập tác chiến phòng thủ, tìm kiếm cứu nạn, các phương án tác chiến bảo vệ khu vực phòng thủ trước những yêu cầu mới của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đất nước. Tiềm lực quốc phòng từng bước được tăng cường; thường xuyên nâng cao chất lượng huấn luyện và quản lý chặt chẽ lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh tuyến biển.
Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tình hình và nhiệm vụ công tác quốc phòng cho các tầng lớp nhân dân được triển khai tích cực. Thực hiện tốt quy trình công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ; hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân hàng năm, bảo đảm chất lượng, dân chủ, công khai, công bằng, đúng luật. Trong 5 năm đã huy động được 16.100 thanh niên nhập ngũ. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội và giải quyết tồn đọng về chính sách sau chiến tranh.
2- Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục được duy trì, mở rộng với nhiều mô hình mới, sáng tạo, hiệu quả. Cấp uỷ đã ban hành Nghị quyết toàn khoá và hàng năm về lãnh đạo công tác an ninh, trật tự. Tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững. Bảo đảm an toàn các sự kiện chính trị quan trọng, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ. Thực hiện tốt các đề án trong Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng chống buôn bán người. Phạm pháp hình sự được kiềm chế, trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực trên cả 3 mặt (số vụ, số người chết, người bị thương). Xuất hiện nhiều mô hình làm tốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, nhất là trong vùng đồng bào theo các tôn giáo.
Công tác xây dựng lực lượng công an nhân dân được tăng cường. Chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp xiết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả công tác, xây dựng hình ảnh đẹp “Công an Nam Định trong lòng dân”. Cuộc vận động “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp sống văn hóa, vì nhân dân phục vụ” gắn với phong trào “Công an nhân dân học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy” và quy định về nêu gương của người đứng đầu được triển khai thực hiện nghiêm túc, có kết quả.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XVII (2010-2015)
Chỉ tiêu |
Đơn vị |
Chỉ tiêu |
Kết quả thực hiện |
Ghi chú
|
I. các chỉ tiêu đạt và vượt |
|
|
|
|
1. Cơ cấu kinh tế |
|
|
|
|
- Nông, lâm, thuỷ sản |
(%) |
26,0 |
24,0 |
Vượt chỉ tiêu |
- Công nghiệp, xây dựng |
“ |
39,5 |
41,0 |
|
- Dịch vụ |
“ |
34,5 |
35,0 |
|
2. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản bình quân |
% |
3,0- 4,0 |
3,1 |
Đạt chỉ tiêu |
3. Giá trị sản phẩm trên một ha canh tác đến năm 2015 |
Triệu đồng |
85 - 90 |
100 |
Vượt chỉ tiêu |
4. Sản lượng lương thực bình quân |
Ngàn tấn |
920 - 950 |
939 |
Đạt chỉ tiêu |
5. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng năm 2015 |
Ngàn tấn |
140 - 145 |
154 |
Vượt chỉ tiêu |
6. Sản lượng thuỷ sản năm 2015 |
Ngàn tấn |
100 - 110 |
119 |
Vượt chỉ tiêu |
7. Tốc độ tăng GTSX công nghiệp bình quân |
% |
22 - 23 |
22,3 |
Đạt chỉ tiêu |
8. Tốc độ tăng giá trị dịch vụ bình quân |
% |
9 - 10 |
12,1 |
Vượt chỉ tiêu |
9. Tổng giá trị hàng xuất khẩu năm 2015 |
Triệu USD |
400 - 420 |
1.000 |
Vượt chỉ tiêu |
10. Thu ngân sách từ kinh tế địa phương năm 2015 |
Tỷ đồng |
2.200 - 2.300 |
2.800 |
Vượt chỉ tiêu |
11. Tốc độ tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội |
% |
15 - 17 |
18,5 |
Vượt chỉ tiêu |
12. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 |
% |
3,0 |
2,5 |
Vượt chỉ tiêu |
13. Giảm tỷ suất sinh hàng năm |
%o |
0,15 - 0,2 |
0,15 |
Đạt chỉ tiêu |
14. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 |
% |
60 |
60 |
Đạt chỉ tiêu |
15. Tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ |
% |
93 - 94 |
93,95 |
Đạt chỉ tiêu |
16. Tỷ lệ chính quyền cơ sở đạt vững mạnh |
% |
85 |
85 |
Đạt chỉ tiêu |
II. Các chỉ tiêu không đạt |
|
|
|
|
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm GRDP bình quân |
% |
13 - 14 |
12,3 |
Không đạt chỉ tiêu |
GRDP bình quân/người |
Tr. đồng |
39 - 40 |
37 |
Không đạt chỉ tiêu |
2. Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ (Do hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về tiêu chí đánh giá chất lượng đảng viên thay đổi) |
% |
90 - 92 |
84,91 |
Không đạt chỉ tiêu |
IV - Đánh giá chung
Trong 5 năm qua, Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành quả quan trọng trên các mặt công tác, nổi bật là:
1- Hoàn thành và hoàn thành vượt mức hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu. Kinh tế có bước phát triển mới, tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân của thời kỳ 2006-2010; chất lượng tăng trưởng được cải thiện hơn.
2- Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, thực sự trở thành phong trào của nhân dân, tạo nên khí thế mới trong nông thôn toàn tỉnh; diện mạo nông thôn có nhiều thay đổi, ý thức làm chủ của nông dân được nâng cao, sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển; đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.
3- Đầu tư phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, điện lực được cải thiện đáng kể. Hoàn thành, đưa vào sử dụng nhiều công trình trọng điểm, huyết mạch, tạo thế và lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của tỉnh.
4- Thành phố Nam Định hoàn thành sớm mục tiêu nâng cấp lên đô thị loại I trực thuộc tỉnh, diện mạo đô thị có sự thay đổi rõ rệt, từng bước hình thành các chức năng trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng.
5- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt được nhiều thành tựu mới, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, an sinh xã hội được bảo đảm.
6- Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đảm bảo môi trường sống an toàn cho người dân; không để xảy ra các tình huống bị động, bất ngờ.
7- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đổi mới về phương thức hoạt động của từng lĩnh vực, những khâu trọng tâm, đột phá như công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác cán bộ, xử lý vi phạm, trách nhiệm của người đứng đầu... đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể nhân dân; củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
* Nguyên nhân kết quả đạt được:
1- Trước hết có sự đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng bộ trên cơ sở thực hiện quy chế làm việc và các nguyên tắc của Đảng. Có sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sự đồng thuận, nỗ lực, cố gắng, thi đua yêu nước của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp.
2- Có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên kịp thời của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự giúp đỡ hiệu quả của các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương; sự ủng hộ hợp tác của các tỉnh, thành phố trong cả nước.
3- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ các cấp đồng bộ, toàn diện, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm, sát với thực tiễn cơ sở, chủ động nắm chắc tình hình, tập trung giải quyết kịp thời các vấn đề mới nảy sinh. Công tác điều hành của chính quyền các cấp đã thể hiện sự chủ động, quyết liệt, cụ thể. Có sự phối hợp tốt hơn giữa các cấp, ngành trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ.
4- Việc tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng (đặc biệt là hệ thống giao thông huyết mạch) cùng với việc triển khai tích cực, hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới đã tạo điều kiện thuận lợi và động lực quan trọng cho sự phát triển những năm qua.
B- NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN
I- Những hạn chế, yếu kém
1- Chưa tạo được sự đột phá trong phát triển kinh tế
Thực hiện tái cơ cấu kinh tế còn chậm, thiếu những giải pháp hiệu quả, phù hợp. Thu ngân sách từ kinh tế địa phương chưa có nguồn thu chủ lực, ổn định; thu từ sản xuất, kinh doanh chiếm tỷ lệ chưa cao. Nguồn vốn ngân sách cho đầu tư phát triển chủ yếu từ sự hỗ trợ của ngân sách Trung ương.
Một số ngành công nghiệp động lực và có thế mạnh đã được định hướng từ Đại hội XVIII nhưng phát triển chậm. Chưa thu hút được nhiều dự án, doanh nghiệp và sản phẩm chủ lực có quy mô lớn, có thương hiệu và uy tín cao trên thị trường. Các ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh thiếu tính ổn định, hiệu quả sản xuất không cao. Việc thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp chưa mạnh, chưa có nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao.
Chưa hình thành được các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực còn hạn chế; nông sản xuất khẩu phần lớn ở dạng sơ chế hoặc xuất khẩu thô; hiệu quả kinh tế thấp. Chưa có nhiều hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp, hiệu quả cao. Việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chậm; lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao (60,8%), lao động công nghiệp còn thấp (20,8%) trong tổng cơ cấu lao động của tỉnh. Đời sống nông dân một số nơi còn khó khăn.
Chất lượng, quy mô dịch vụ nhìn chung còn hạn chế. Du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, thiếu tính chuyên nghiệp. Chưa hình thành được các tua du lịch và sản phẩm du lịch đặc trưng của từng địa phương.
Tiềm năng về kinh tế biển chưa được khai thác có hiệu quả; việc triển khai các dự án đầu tư cho vùng kinh tế biển chậm và lúng túng. Khu vực kinh tế biển chưa có tác động rõ rệt đến sự phát triển kinh tế chung và nguồn thu ngân sách của tỉnh.
Quy mô sản xuất của doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ, phương hướng sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp không rõ, chất lượng nguồn nhân lực, trình độ công nghệ, thiết bị phổ biến ở mức trung bình, sức cạnh tranh yếu nên hoạt động kém hiệu quả.
Một số định hướng phát triển có tính chiến lược của tỉnh chậm được cụ thể hoá, triển khai chưa kịp thời, có lúc thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành, nhất là trong việc phát triển kinh tế vùng biển, thu hút đầu tư và cải cách thủ tục hành chính.
2- Lĩnh vực văn hoá - xã hội còn nhiều bất cập cần giải quyết
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” chưa đi vào chiều sâu. Các thiết chế văn hoá ở cơ sở chưa được khai thác hiệu quả. Một số cộng đồng dân cư còn thiếu nơi sinh hoạt, hội họp, thiếu điểm vui chơi
của trẻ em. Còn ít tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu có tác động tới định hướng tư tưởng của xã hội và phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Hiệu quả khai thác, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và chuyên môn chưa cao. Hiệu quả ứng dụng thực tiễn của một số đề tài khoa học còn hạn chế.
Việc phối hợp của các ngành chức năng trong quản lý dạy thêm, học thêm ở một số nơi chưa chặt chẽ. Việc đổi mới phương pháp dạy học trong một số nhà trường còn chậm. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ việc dạy và học tuy đã được đầu tư nhưng còn khó khăn. Chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non ngoài biên chế còn bất cập. Công tác đào tạo nghề chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và đơn vị sử dụng. Một số nội dung đào tạo chưa gắn kết tốt với nhu cầu thực tế ở địa phương, doanh nghiệp.
Chất lượng khám, chữa bệnh, nhất là ở tuyến cơ sở còn hạn chế. Tỷ lệ bác sỹ trên một vạn dân còn thấp. Công tác quản lý cơ sở khám chữa bệnh, kinh doanh thuốc chữa bệnh tư nhân ở một số nơi chưa tốt. Tinh thần, thái độ phục vụ, y đức của một bộ phận nhân viên y tế chưa đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ người sinh con thứ 3 còn cao, chênh lệch giới tính khi sinh lớn (115 bé trai/100 bé gái).
Việc thực hiện các chính sách xã hội ở một số địa phương chưa được kiểm tra, giám sát chặt chẽ; còn để xảy ra các hiện tượng tiêu cực gây bất bình trong xã hội phải xử lý theo quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Vấn đề việc làm, ổn định cuộc sống cho lao động ở khu vực nông thôn và các địa phương có dự án phải thu hồi đất chưa được giải quyết căn bản nên tình trạng khiếu kiện vẫn còn ở một số nơi.
Ô nhiễm môi trường ở một số khu, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở y tế, khu dân cư… chưa được quan tâm xử lý dứt điểm. Vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
3- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức Đảng chưa cao. Công tác tư tưởng chưa được quan tâm đúng mức; tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục. Thực hiện tự phê bình và phê bình chưa thường xuyên, thiếu tính chiến đấu. Nguyên tắc tập trung dân chủ có lúc, có nơi thực hiện chưa tốt. Nội dung sinh hoạt Đảng chậm đổi mới, chất lượng chưa cao.
Việc quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng ở một số cấp ủy chưa đạt yêu cầu đề ra. Công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng chưa đa dạng, thiếu thuyết phục. Thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ quản lý chưa theo kịp thực tiễn.
Công tác sắp xếp tổ chức bộ máy chưa đạt mục tiêu tinh gọn. Luân chuyển cán bộ để đào tạo cán bộ trẻ triển khai chậm. Công tác đánh giá cán bộ, phân loại tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên còn biểu hiện nể nang, hình thức, chưa đẩy lùi được bệnh thành tích. Trình độ năng lực của một bộ phận cán bộ làm công tác Đảng, đoàn thể chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác phát triển Đảng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ Đảng, nhất là ở nông thôn chậm đổi mới.
Công tác kiểm tra, giám sát ở một số Đảng bộ còn dàn trải, thiếu quyết liệt. Việc kiểm tra tổ chức Đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm thiếu chủ động. Công tác giám sát hiệu quả chưa cao. Thực hiện kết luận kiểm tra của một số tổ chức Đảng chưa nghiêm túc, kịp thời.
Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa theo kịp sự phát triển chung của kinh tế - xã hội, còn biểu hiện hình thức, thiếu cụ thể và thiết thực, vẫn còn tình trạng hành chính hoá. Công tác giám sát và phản biện xã hội chưa được chú trọng. Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác dân vận ở một số nơi chưa thường xuyên nên hiệu quả chưa cao.
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” tuy bước đầu đã đạt kết quả nhưng chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng bộ. Công tác tự phê bình, phê bình ở nhiều cấp uỷ chưa sâu, chưa thường xuyên, đặc biệt là đối với những biểu hiện của sự thoái hoá tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên. Kế hoạch khắc phục, sửa chữa sau kiểm điểm ở nhiều nơi còn thiếu cụ thể, tính khả thi thấp. Một số vấn đề được dư luận quan tâm như tình trạng sách nhiễu trong các cơ quan công quyền, tiêu cực trong quản lý đất đai, thực hiện các dự án đầu tư, tuyển dụng cán bộ… chậm được khắc phục, gây bức xúc, giảm lòng tin của nhân dân. Thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" ở một số địa phương, đơn vị chưa được chỉ đạo thường xuyên, thiếu chủ động, sáng tạo; chưa gắn việc học tập và làm theo Bác với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương và việc thực hiện các quy định khác của Đảng; chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc “làm theo”. Một số địa phương, đơn vị có triển khai nhưng còn hình thức, chưa tạo được chuyển biến rõ rệt.
4- Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước ở một số địa phương, sở, ngành có mặt còn thấp, có nơi còn buông lỏng quản lý trên một số lĩnh vực. Tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ công chức chưa cao. Hoạt động của HĐND các cấp trên một số lĩnh vực, nhất là công tác giám sát chuyên đề hiệu quả còn hạn chế. Cải cách hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính thiếu đồng bộ, chưa có bước đột phá. Mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức trong bộ máy hành chính có lúc, có nơi còn thiếu chặt chẽ.
5- Công tác chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở một số địa phương, cơ quan có lúc chưa được quan tâm đúng mức. Công tác tuyên truyền về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân còn hạn chế. Công tác huấn luyện dân quân tự vệ ở một số đơn vị còn hình thức. Công tác tuyển quân tuy đã có chuyển biến nhưng ở một số địa phương còn khó khăn.
6- Tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông vẫn là vấn đề quan tâm, lo lắng của toàn xã hội. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong các tầng lớp nhân dân chưa thường xuyên, hiệu quả còn hạn chế. Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa cao. Tình trạng khiếu kiện ở một số nơi còn diễn biến phức tạp.
II- Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
1- Một số tổ chức Đảng chưa thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo, có tư tưởng trông chờ, ỷ lại cấp trên, thiếu tính chủ động. Nội dung, phương thức, tư duy lãnh đạo chậm được đổi mới nhất là trong lãnh đạo phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc; thực hiện quy chế làm việc chưa nghiêm, thiếu tính dân chủ và tính chiến đấu trong sinh hoạt Đảng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút phẩm chất, trình độ hạn chế, thiếu tâm huyết, gương mẫu, thậm chí vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, có biểu hiện sách nhiễu, phiền hà trong thi hành công vụ, gây mất uy tín với nhân dân.
2- Năng lực lãnh đạo, hiệu quả điều hành của chính quyền có lúc, có mặt còn hạn chế; công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện thiếu thường xuyên. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong một số công việc thiếu chặt chẽ, còn có tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.
3- Công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh của tỉnh còn hạn chế. Môi trường đầu tư chưa thực sự thông thoáng, hấp dẫn; còn ít dự án quy mô lớn, công nghệ cao.
4- Việc triển khai các chương trình công tác trọng tâm và các nghị quyết chuyên đề của Tỉnh uỷ còn thiếu đồng bộ, nguồn lực và những giải pháp cụ thể, thiết thực. Mặc dù có sơ, tổng kết nhưng công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện chưa thường xuyên, nên kết quả thực hiện các nghị quyết chuyên đề còn hạn chế.
5- Tình hình suy giảm kinh tế của những năm đầu nhiệm kỳ cùng với diễn biến phức tạp ở Biển Đông tác động đến tư tưởng các tầng lớp nhân dân, ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và thu hút đầu tư của tỉnh.
C- MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong nhiệm kỳ qua, rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:
1- Đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhất là cấp cơ sở. Kiên trì thực hiện đồng bộ các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó trọng tâm là đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
2- Bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong cấp ủy, thường vụ, thường trực cấp ủy trên cơ sở thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân; tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát đối với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; tăng cường sự đồng thuận xã hội nhất là đối với những vấn đề lớn như: Xây dựng nông thôn mới, xây dựng văn minh đô thị, trật tự an toàn xã hội.
3- Bảo đảm hài hòa, cân đối giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và phát triển văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh. Khai thác và phân bổ hợp lý, có trọng tâm các nguồn lực nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững, đồng thời xây dựng nền văn hoá, con người phát triển toàn diện gắn với giải quyết các vấn đề bức xúc trong xã hội.
4- Tích cực tranh thủ sự giúp đỡ hỗ trợ của Trung ương, đồng thời thực hiện xã hội hóa trong việc thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế để đầu tư, phát triển. Phát huy tối đa nội lực, đặc biệt là nội lực văn hóa, giáo dục, con người của tỉnh.
5- Vận dụng linh hoạt sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để giải quyết có hiệu quả các vấn đề thực tiễn cụ thể của địa phương, lấy hiệu quả thực tiễn là mục tiêu. Mạnh dạn, kiên quyết, kiên trì, tập trung chỉ đạo giải quyết các việc lớn, việc khó, tạo thế phát triển ổn định, lâu dài.
6- Bảo đảm ổn định xã hội là yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Để đạt mục tiêu đó phải thực hiện tốt các giải pháp đồng bộ ngay từ cơ sở, trong đó chú trọng công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; chăm lo đời sống, thực hiện quy chế dân chủ và trách nhiệm phục vụ nhân dân. Đổi mới hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân theo hướng sát cơ sở, tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc của địa phương, chăm lo, bảo vệ quyền lợi thiết thực, cụ thể chính đáng của đoàn viên, hội viên.
PHẦN THỨ HAI
Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu 5 năm (2015-2020)
Bước vào giai đoạn 2015-2020, bối cảnh quốc tế và trong nước dự báo có một số vấn đề đáng chú ý:
Toàn cầu hóa ngày càng diễn ra sâu rộng; khoa học, công nghệ phát triển nhanh, tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia; kinh tế thế giới phục hồi chậm; tranh chấp lãnh thổ trên biển, đảo, nhất là ở Biển Đông gay gắt và diễn biến rất phức tạp, khó lường; vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái; biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng sâu rộng... sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chung của đất nước, trong đó có những mặt tác động trực tiếp đối với tỉnh ta cả về thuận lợi và khó khăn.
Trong nước, những thành tựu đạt được của 30 năm đổi mới đã tạo ra thế và lực mới, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Tác động của khủng hoảng kinh tế đang đặt ra nhu cầu bức thiết phải tái cơ cấu nền kinh tế và tìm ra động lực mới cho sự phát triển. Tinh thần yêu nước, sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân được khơi dậy trong thời điểm có nhiều thách thức của đất nước, là nền tảng quan trọng tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết, đưa nước ta phát triển trong giai đoạn mới.
Trong bối cảnh đó, tỉnh Nam Định có những thuận lợi cơ bản: Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; Đảng bộ đoàn kết, thống nhất; những thành tựu đạt được trong những nhiệm kỳ trước đây, đặc biệt việc hoàn thành cơ bản hệ thống giao thông huyết mạch và kết quả xây dựng nông thôn là nền tảng quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; truyền thống văn hóa, giáo dục, nguồn lực con người tiếp tục là nhân tố quan trọng, quyết định cho sự phát triển; sự quan tâm và định hướng của Trung ương về xây dựng Thành phố Nam Định trở thành Trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng là cơ hội lớn cho sự phát triển của tỉnh trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản còn có nhiều khó khăn thách thức: Tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh còn chậm so với sự phát triển chung của vùng đồng bằng sông Hồng. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, năng suất lao động thấp nên khả năng ứng phó trước các biến động kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay. Một số vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết căn bản. Các thế lực thù địch gia tăng các hoạt động chống phá. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế… đó là những thách thức lớn cần phải vượt qua.
I- Mục tiêu tổng quát và chỉ tiêu chủ yếu 5 năm (2015-2020)
1- Mục tiêu tổng quát
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ và nhân dân, tạo đột phá trong phát triển kinh tế. Tiếp tục xây dựng Thành phố Nam Định trở thành Trung tâm của vùng Nam đồng bằng sông Hồng. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới trong toàn tỉnh. Tiếp tục củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất, nhất là các hình thức hợp tác, tổ chức sản xuất trong nông nghiệp. Phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường. Chăm lo, nâng cao hơn nữa đời sống của nhân dân. Củng cố khối đại đoàn kết và đồng thuận xã hội. Tăng cường tiềm lực quốc phòng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội.
2- Các chỉ tiêu chủ yếu
1. Tổng sản phẩm trong tỉnh GRDP (giá so sánh 2010) tăng bình quân 7-7,5%/năm; GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) năm 2020 đạt 70 triệu đồng.
2. Cơ cấu kinh tế đến năm 2020:
- Nông, lâm, thủy sản: 18%
- Công nghiệp, xây dựng: 47%
- Dịch vụ: 35%
3. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản (giá so sánh 2010) tăng bình quân 2-2,5%/năm.
4. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) tăng bình quân 13-14%/năm.
5. Giá trị các ngành dịch vụ (giá so sánh 2010) tăng bình quân 7-8%/năm.
6. Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tăng 14-15%/năm.
7. Thu ngân sách trên địa bàn năm 2020 đạt 5.500-6.000 tỷ đồng.
8. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới đến năm 2020: Tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới; 80% số huyện và số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
9. Xây dựng hệ thống chính trị:
- Tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ 80% trở lên.
- Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt ít nhất 80%.
- Tỷ lệ chính quyền cơ sở đạt vững mạnh 80% trở lên.
II- Định hướng phát triển, nhiệm vụ trọng tâm của các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội
1- Triển khai toàn diện Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển bền vững, hiệu quả, gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới, xác định đây là một định hướng phát triển cơ bản và lâu dài của tỉnh
Duy trì động lực và nâng cao hiệu quả phong trào “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”. Thực hiện nhất quán phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”; tạo thuận lợi để người dân thể hiện cao nhất vai trò chủ thể trong xây dựng nông thôn mới. Khuyến khích các mô hình người dân tự làm, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong xây dựng, quản lý, khai thác các cơ sở hạ tầng, đời sống văn hóa, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Tập trung triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015-2020 đối với các xã còn lại, phấn đấu đến năm 2020 đạt tiêu chí “Tỉnh nông thôn mới”.
Tập trung, tích tụ ruộng đất, tổ chức sản xuất hàng hóa theo quy hoạch. Phát triển mạnh các mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, “cánh đồng liên kết”. Tổ chức các chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản gắn với quy hoạch và kế hoạch phát triển thị trường. Ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển công nghiệp chế biến, liên kết với các địa phương trong nước để mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Xây dựng tỉnh Nam Định thành trung tâm sản xuất giống một số loại cây trồng, vật nuôi chủ lực. Phấn đấu giá trị sản phẩm trên một ha canh tác đến năm 2020 đạt 140 triệu đồng.
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi tập trung theo quy mô trang trại, gia trại vừa và nhỏ tại các vùng xa khu dân cư, an toàn dịch bệnh. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đến năm 2020 đạt 220 nghìn tấn. Từng bước tổ chức lại hệ thống giết mổ gia súc, gia cầm tập trung, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường.
Khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản hàng hóa theo hình thức nuôi công nghiệp có hiệu quả kinh tế cao. Tạo điều kiện đẩy mạnh đánh bắt, khai thác xa bờ. Phát triển hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá, chế biến thuỷ sản. Sản lượng thủy sản đến năm 2020 đạt 150 nghìn tấn.
Đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống thủy lợi, thủy nông phù hợp với quy hoạch và định hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất, có tính tới các tác động của biến đổi khí hậu. Tiếp tục đầu tư tu bổ, nâng cấp, kiên cố hóa đê biển, đê sông, hệ thống hạ tầng cho đồng muối và nuôi trồng thủy sản. Nghiên cứu các giải pháp ngăn chặn sự xâm nhập mặn sâu và độ mặn cao ảnh hưởng đến các diện tích sản xuất lúa, nuôi trồng thủy sản.
Có chính sách hỗ trợ phát triển các làng nghề truyền thống, mở rộng nghề hiện có, phát triển thêm nghề mới; khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Phấn đấu hầu hết các xã đều có nghề.
Đổi mới quan hệ sản xuất, đẩy mạnh liên kết giữa nông dân với nông dân, nông dân với doanh nghiệp thông qua hợp tác xã. Chuyển đổi và nâng cao hiệu quả của các hợp tác xã hoạt động theo Luật Hợp tác xã, giải thể các hợp tác xã hoạt động thường xuyên thua lỗ. Khuyến khích thành lập các tổ hợp tác, các hợp tác xã chuyên ngành làm đầu mối, đại diện cho người dân liên kết với doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị và các hợp tác xã dịch vụ khác phục vụ sản xuất nông nghiệp.
2- Đưa công nghiệp trở thành ngành kinh tế chủ lực, góp phần chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tạo nguồn thu lớn, ổn định cho ngân sách
Tập trung phát triển, tăng tỷ trọng sản phẩm các ngành công nghiệp có công nghệ hiện đại và giá trị gia tăng cao: Cơ khí chế tạo, điện tử, công nghiệp phần mềm, dược phẩm, công nghiệp hỗ trợ và một số ngành công nghiệp có thế mạnh truyền thống trong tỉnh. Tạo điều kiện để công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp thu hút nhiều lao động dịch chuyển về vùng nông thôn để thúc đẩy phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề và giải quyết việc làm cho khu vực nông nghiệp. Coi trọng xây dựng và quảng bá các thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu các sản phẩm công nghiệp của tỉnh có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong và ngoài nước.
Hoàn thiện xây dựng hạ tầng khu công nghiệp Mỹ Trung. Xây dựng khu công nghiệp dệt may Rạng Đông (quy mô giai đoạn 1: 600ha) thành trung tâm sản xuất đồng bộ từ dệt vải, nhuộm, phụ kiện và may mặc có công nghệ hiện đại, bảo đảm các tiêu chuẩn môi trường. Phối hợp triển khai chương trình xúc tiến đầu tư toàn diện, chuyên nghiệp, có trọng điểm; hướng tới các nhà đầu tư có công nghệ, sản phẩm có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và thế giới như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinh-ga-po...
Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác khuyến công; tập trung khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tiểu thủ công nghiệp, làng nghề phát triển.
Định hướng đến năm 2020 tập trung phát triển những ngành công nghiệp chủ yếu sau:
- Công nghiệp dệt, may với các sản phẩm đồng bộ từ khâu kéo sợi, dệt vải, đến may mặc, các nguyên, phụ liệu... Chú trọng đầu tư hình thành những sản phẩm may cao cấp, có thương hiệu riêng; khuyến khích doanh nghiệp thay mới các công nghệ hiện đại. Chuyển dịch các đơn vị may gia công về khu vực nông thôn. Ưu tiên các khu công nghiệp ở khu vực thành phố cho phát triển ngành sợi, dệt vải, nhuộm, may thời trang cao cấp. Xây dựng Nam Định từng bước trở thành trung tâm dệt may lớn của cả nước.
- Cơ khí chế tạo, điện, gia công kim loại với các sản phẩm chính là: thiết bị, máy móc, công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu dùng; sửa chữa, đóng mới tàu thủy; sản xuất phụ tùng, lắp ráp ô tô, xe máy; linh kiện điện tử...
- Chế biến thực phẩm, đồ uống với các sản phẩm chính là: tôm, thịt đông lạnh, rau quả xuất khẩu, bia, nước giải khát.
- Công nghiệp dược: Đầu tư chiều sâu, phấn đấu đưa Nam Định trở thành trung tâm nghiên cứu, sản xuất thuốc chữa bệnh của cả nước.
- Tập trung xây dựng hoàn thành trung tâm công nghệ thông tin của tỉnh. Hình thành một số cơ sở gia công, sản xuất phần mềm, thiết bị thông tin.
3- Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ tương xứng với tiềm năng, vị trí của trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng
Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh doanh hiện đại như: siêu thị, trung tâm thương mại, khu giải trí, mạng lưới chợ đầu mối. Đảm bảo lưu thông hàng hoá, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của dân cư, nhất là vùng nông thôn. Phấn đấu tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ bình quân 15-20%/năm. Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm; đảm bảo ổn định và lành mạnh hoá thị trường. Đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm lợi thế của địa phương: Sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng may mặc. Tăng cường tìm kiếm các thị trường mới; hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động quảng bá thương hiệu, xúc tiến thương mại, tìm kiếm đối tác, cơ hội hợp tác kinh doanh thông qua các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước. Phấn đấu tổng giá trị hàng xuất khẩu trên địa bàn năm 2020 đạt 1,8-2 tỷ USD. Tiếp tục đầu tư hạ tầng các khu du lịch trọng điểm như: Khu di tích văn hóa Trần, Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ... Đầu tư xây dựng các sản phẩm và các tua du lịch đặc trưng của Nam Định. Tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá và đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Có cơ chế thu hút các thành phần kinh tế đầu tư khai thác các khu du lịch, khu vui chơi, giải trí, khách sạn... chất lượng cao. Có chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp kinh doanh đầu tư phát triển hạ tầng, mở rộng mạng lưới hoạt động dịch vụ thông tin, truyền thông. Tổ chức tốt các dịch vụ vận tải, đổi mới quản lý hoạt động kinh doanh các bến xe trong tỉnh, nâng cao chất lượng phục vụ ở các tuyến vận tải công cộng đô thị và các tuyến nội tỉnh, ngoại tỉnh. Phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn, y tế, cung cấp nước sạch và các loại dịch vụ khác phục vụ nhân dân và nhu cầu xã hội.
4- Tích cực, chủ động tạo thêm nguồn thu mới phục vụ cho đầu tư và phát triển, sản xuất, kinh doanh
Huy động tối đa các nguồn thu ngân sách; phấn đấu trong 5 năm tới có thêm một số nguồn thu lớn, ổn định từ sản xuất, kinh doanh. Triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu ngân sách. Bố trí ngân sách phù hợp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, tập trung ưu tiên một số lĩnh vực trọng điểm, tránh dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp.
Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới ngân hàng thương mại, đặc biệt là trên địa bàn nông thôn. Phấn đấu huy động vốn tăng bình quân hàng năm từ 14%-16%, dư nợ cho vay tăng bình quân từ 12%-14%. Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, hạn chế tối đa nợ xấu và kiểm soát được nợ xấu.
5- Tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái
Kiên quyết chấn chỉnh và đưa vào nề nếp công tác quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Sớm hoàn thành công tác đo đạc, chỉnh lý bản đồ địa chính, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở dữ liệu để quản lý đất đai theo hướng hiện đại. Tăng cường bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên. Thường xuyên tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong toàn xã hội. Huy động nhiều nguồn lực tham gia đầu tư các công trình xử lý nước thải, rác thải ở các khu, cụm công nghiệp, cơ sở y tế, làng nghề và ở các xã, thị trấn. Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư trên địa bàn. Tích cực, chủ động xây dựng, thực hiện các giải pháp khắc phục tác động của biến đổi khí hậu, nhất là ở vùng ven biển. Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước sạch đạt 95%.
6- Tập trung cải tạo, nâng cấp, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Tiếp tục huy động các nguồn vốn từ ngân sách, vốn trái phiếu, vốn ODA và vốn của các thành phần kinh tế khác để đẩy mạnh đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng then chốt theo hướng hiện đại. Trong giai đoạn 2015-2020, tập trung đầu tư một số công trình hạ tầng trọng điểm để tạo thế và động lực phát triển cho giai đoạn tiếp theo.
- Hạ tầng giao thông: Dự án xây dựng tuyến đường trục kết nối vùng kinh tế biển Nam Định với đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình; đường bộ ven biển đoạn qua Nam Định và cầu Thịnh Long; cầu Tân Phong; cầu Đống Cao; các đoạn còn lại của Quốc lộ 38B, tỉnh lộ 488, 487 và các tuyến đường trục các huyện.
- Hạ tầng đê điều, thủy lợi: Tiếp tục đầu tư nâng cấp các đoạn còn lại trên tuyến đê biển tỉnh và các dự án thuộc chương trình nâng cấp đê sông, trước hết là các điểm xung yếu, các công trình phòng chống lụt bão.
- Hạ tầng thủy sản: Đầu tư các dự án nằm trong chương trình phát triển thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ (Khu neo đậu tàu thuyền tránh trú bão cửa Hà Lạn; Cảng cá Quần Vinh và các dự án nâng cấp hạ tầng các vùng nuôi trồng thủy sản).
- Hạ tầng đô thị, văn hóa xã hội: Tiếp tục chỉnh trang đô thị Thành phố Nam Định và mở rộng đô thị theo quy hoạch. Tập trung thực hiện Đề án xây dựng các khu đô thị tại trung tâm các huyện. Tiếp tục đầu tư dự án tôn tạo Khu di tích lịch sử văn hoá Trần; hoàn thành xây dựng Bệnh viện 700 giường và nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh.
7- Phát huy thế mạnh về văn hóa, giáo dục; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội
7.1- Triển khai đồng bộ, toàn diện chương trình xây dựng và phát triển văn hoá, con người Nam Định theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI), trong đó tập trung các nội dung: xây dựng con người phát triển toàn diện; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; chú trọng xây dựng văn hóa trong các cơ quan, đơn vị; nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động văn hóa... Tăng cường công tác quản lý và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa. Đổi mới công tác quản lý lễ hội theo hướng Nhà nước hướng dẫn, quản lý, cộng đồng dân cư là chủ thể, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện; kiên quyết chống các biểu hiện tư nhân hoá, thương mại hoá; giữ gìn sự tôn nghiêm và nét đẹp văn hoá truyền thống của các lễ hội. Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá quần chúng, đồng thời tạo điều kiện khuyến khích các hoạt động sáng tạo, các tài năng nghệ thuật để có nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật có giá trị. Phấn đấu đến năm 2020: 76,5% gia đình đạt tiêu chuẩn văn hoá; 52% làng, xóm, khu phố đạt chuẩn văn hoá; 95% xã, phường có nhà văn hoá; 100% làng, thôn có điểm sinh hoạt văn hoá, khu hoạt động thể dục, thể thao.
Phát triển mạnh mẽ phong trào thể dục, thể thao quần chúng, giáo dục thể chất trong trường học, đồng thời phát triển các môn thể thao thành tích cao có truyền thống, lợi thế của tỉnh.
Nâng cao chất lượng và tăng cường quản lý, đầu tư hệ thống thông tin đại chúng, nhất là Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh và Báo Nam Định để báo chí tham gia tích cực vào sự phát triển của tỉnh.
7.2- Huy động cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở tất cả các cấp học, ngành học; chú trọng công tác phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi. Nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục, đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và các hoạt động giáo dục. Nâng cao chất lượng và bố trí hợp lý đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Tập trung nguồn lực, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu của các cơ sở giáo dục đào tạo chất lượng cao và chuẩn quốc gia.
Phấn đấu đến năm 2020 có 80% trường mầm non, 100% trường trung học cơ sở và trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; 60% trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ II.
Nâng cao chất lượng các trường đại học, cao đẳng hiện có, tập trung đào tạo một số ngành phù hợp đáp ứng cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và khu vực. Nghiên cứu xây dựng quy hoạch, từng bước hình thành Khu Đại học tập trung tỉnh Nam Định. Phát triển các trường, trung tâm dạy nghề, tăng cường phối hợp giữa các cơ sở đào tạo và đơn vị sử dụng trong các khâu tuyển sinh, lựa chọn ngành nghề đào tạo, sử dụng lao động sau đào tạo.
Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, phát triển các hoạt động khuyến học, khuyến tài, các trung tâm học tập cộng đồng. Giữ vững vị trí tốp dẫn đầu toàn quốc về giáo dục đào tạo.
7.3- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống, trong đó chú trọng các ngành nông nghiệp, công nghiệp, y tế, tài nguyên và môi trường; nâng cao hiệu quả thực tiễn của các đề tài khoa học. Xây dựng các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tiến tới hình thành khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Khuyến khích doanh nghiệp trong tỉnh đổi mới công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng để tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm hàng hóa. Quản lý chặt chẽ công tác tiêu chuẩn đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hóa, an toàn bức xạ. Tăng cường đầu tư phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, đào tạo và thu hút nguồn nhân lực khoa học công nghệ; tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy năng lực sáng tạo.
7.4- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đáp ứng cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh của người dân trong tỉnh, nhất là đối với người nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách. Hoàn thành việc đầu tư nâng cấp các bệnh viện tuyến tỉnh; khuyến khích phát triển, đồng thời tăng cường quản lý các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân. Chú trọng phát triển mạng lưới y tế dự phòng, không để xảy ra dịch bệnh lớn. Có chính sách thu hút, đào tạo đội ngũ thầy thuốc, chuyên gia giỏi; tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của các bệnh viện tuyến trên nhằm đẩy nhanh công tác chuyển giao kỹ thuật từ tuyến trên xuống tuyến dưới. Đặc biệt chú trọng giáo dục nâng cao y đức trong toàn ngành. Phấn đấu đến năm 2020 có 9 bác sỹ, 25,5 giường bệnh trên 1 vạn dân, 80% số xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế giai đoạn 2011-2020.
Đẩy mạnh thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc, tiến tới thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế trên 80% dân số.
Thực hiện có hiệu quả công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình, duy trì tỷ lệ giảm sinh hàng năm 0,1-0,15%o; từng bước khắc phục tình trạng mất cân bằng về giới tính khi sinh, giảm tỷ lệ sinh con thứ ba.
7.5- Quan tâm chăm lo chế độ chính sách đối với người có công, trẻ em, người khuyết tật, người nghèo, người thuộc diện chính sách xã hội; coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh. Bảo đảm thực hiện chính sách đúng, đủ, kịp thời, trách nhiệm; xử lý nghiêm các biểu hiện vô cảm, gây phiền hà, nhũng nhiễu, tiêu cực trong quá trình thực hiện chính sách xã hội. Khuyến khích các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo, từ thiện. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, thực hiện có hiệu quả Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Phấn đấu tỷ lệ lao động qua đào tạo đến 2020 đạt 70-75% tổng số lao động. Phấn đấu hàng năm giải quyết việc làm cho khoảng 30 nghìn lượt người, có khoảng 2.500 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, tạo điều kiện và nhân rộng mô hình các doanh nghiệp, doanh nhân, tổ chức đoàn thể - xã hội tham gia giúp đỡ các hộ giảm nghèo, chống tái nghèo. Phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo giảm hàng năm 1-1,5% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020).
8- Định hướng phát triển các vùng kinh tế
8.1- Vùng kinh tế biển
Xây dựng các chính sách khuyến khích tập trung phát triển thủy sản. Gắn đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thuỷ sản với công nghiệp chế biến, trong đó nuôi trồng là chủ yếu. Đầu tư mở rộng diện tích nuôi trồng ở các bãi ven biển và tích cực chuyển đổi những diện tích đất trồng lúa, làm muối năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ, hải sản. Ưu tiên nuôi trồng công nghiệp. Phát triển kinh doanh dịch vụ tại các khu du lịch ở 2 bãi tắm Quất Lâm, Thịnh Long; có kế hoạch khai thác hoạt động du lịch tại khu sinh thái Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ.
Hình thành một số khu công nghiệp, khu kinh tế trên các vùng đất nhiễm mặn, trong đó tập trung phát triển các ngành công nghiệp đóng, sửa chữa tàu thuỷ; dịch vụ, chế biến thuỷ sản; cảng, vận tải biển... Hoàn thành các thủ tục đầu tư để triển khai xây dựng Nhà máy nhiệt điện (2.400 MW) tại Hải Hậu và đầu tư xây dựng Khu công nghiệp dệt may Rạng Đông, tiếp tục chuẩn bị các điều kiện đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Khu kinh tế Ninh Cơ trước năm 2020.
8.2- Vùng sản xuất nông nghiệp
Tích cực chuyển dịch sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá trong tiến trình tái cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp. Hình thành các vùng sản xuất tập trung thâm canh, chuyên canh các cây trồng có giá trị kinh tế cao, nhất là lúa đặc sản. Khuyến khích tích tụ ruộng đất dưới nhiều hình thức gắn với chuyên môn hóa các khâu sản xuất của người dân; tạo việc làm ổn định; chuyển một phần lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp; nâng cao thu nhập và đời sống dân cư nông thôn. Nghiên cứu quy hoạch xây dựng một số trang trại chăn nuôi quy mô lớn, chất lượng cao, kết nối được thị trường, đồng thời đảm bảo môi trường vùng trang trại.
Hoàn thiện đầu tư đồng bộ hạ tầng các cụm công nghiệp - làng nghề để thu hút đầu tư phát triển sản xuất. Quan tâm đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông liên xã, cấp, thoát nước, xử lý rác thải ở các xã, thị trấn trong vùng.
8.3- Trung tâm công nghiệp dịch vụ Thành phố Nam Định
Đầu tư toàn diện để phát triển các chức năng của đô thị trung tâm vùng theo hướng hiện đại, đồng bộ, có bản sắc riêng, có tính bền vững. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ có lợi thế, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của thành phố, góp phần chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và nâng cao nguồn thu cho ngân sách tỉnh. Từng bước mở rộng quy mô dân số, diện tích phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội theo quy hoạch. Nghiên cứu đầu tư xây dựng khu hành chính tổng hợp, một số công trình hạ tầng công cộng, thương mại dịch vụ, vui chơi giải trí chất lượng cao. Đến năm 2020 hình thành rõ nét một số chức năng trung tâm về công nghiệp, giáo dục đào tạo, văn hóa, thể thao, khoa học công nghệ của vùng.
Nghiên cứu ban hành một số chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư phát triển các chức năng trung tâm vùng của Thành phố Nam Định.
9- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò định hướng của kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã. Tạo điều kiện thuận lợi nhất để các thành phần kinh tế khác phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển chung của tỉnh. Nhân rộng một số hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, tự quản trong nông nghiệp, thủ công nghiệp, làng nghề.
III- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
1- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác chính trị tư tưởng, góp phần nâng cao nhận thức, giữ vững sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ, tạo đồng thuận xã hội
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khoá XVIII) về "Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay”. Đổi mới việc quán triệt, học tập nghị quyết của Đảng theo hướng thiết thực, phù hợp với từng đối tượng, coi trọng xây dựng kế hoạch, chương trình hành động sát với nhiệm vụ cụ thể của từng địa phương, đơn vị.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức nhất là thông qua hệ thống báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin nội bộ, tuyên truyền miệng với phương châm chủ động, đầy đủ, kịp thời, chính xác, đúng định hướng. Thường xuyên nắm bắt dư luận xã hội; kịp thời uốn nắn những lệch lạc, giải đáp vướng mắc; kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
Tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, chú ý các kỹ năng vận dụng vào thực tiễn ở cơ sở. Nâng cao chất lượng giảng dạy tại Trường Chính trị Trường Chinh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; triển khai đề án xây dựng Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện đạt chuẩn; phấn đấu đến năm 2020 có 75% đảng viên có trình độ sơ cấp chính trị, 25% có trình độ trung cấp, 2,5% có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị.
Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành việc làm thường xuyên trong sinh hoạt Đảng, chính quyền, đoàn thể, của các cấp, các ngành, gắn với thực hiện Quy định những điều đảng viên không được làm; Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Tập trung giải quyết dứt điểm một số vấn đề nổi cộm, bức xúc được người dân quan tâm.
Làm tốt công tác biểu dương, nhân rộng các tập thể và cá nhân tiêu biểu làm theo tấm gương đạo đức của Bác.
2- Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới công tác tổ chức cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Kết luận 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá XI) về "Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở". Nâng cao chất lượng các khâu của công tác cán bộ, trọng tâm là công tác đánh giá và bổ nhiệm cán bộ; lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo năng lực cán bộ; thực hiện bổ nhiệm một số chức danh lãnh đạo không phải người địa phương; thí điểm thi tuyển một số vị trí cán bộ lãnh đạo quản lý cấp phòng của các huyện, ngành.
Tiếp tục kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nhất là cấp cơ sở. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đảm bảo sự thống nhất trong lãnh đạo, đồng thời phát huy sự chủ động, năng động theo chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, lĩnh vực. Chỉ đạo và tạo điều kiện thực hiện tốt vai trò, chức năng lãnh đạo của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng, nhất là trong các doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm quy chế làm việc; đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Duy trì nền nếp và đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ gắn với nhiệm vụ chính trị của đơn vị và việc tu dưỡng của mỗi đảng viên.
Nâng cao trình độ chuyên môn, chính trị cho đội ngũ đảng viên, nhất là đảng viên ở cơ sở; làm tốt công tác quản lý và phân công nhiệm vụ đảng viên. Nâng cao chất lượng công tác đánh giá tổ chức cơ sở Đảng, bảo đảm đúng thực chất. Quan tâm phát triển tổ chức Đảng và đảng viên trong các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng các cơ chế, chính sách thu hút nhân tài về công tác tại các cơ quan, đơn vị, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, khoa học công nghệ, sản xuất công nghệ cao và một số lĩnh vực quan trọng khác. Thực hiện nghiêm công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
3- Nâng cao chất lượng và tính nghiêm minh, kịp thời trong công tác kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật Đảng góp phần giữ nghiêm kỷ cương của Đảng
Quán triệt, nâng cao nhận thức và làm rõ trách nhiệm của tổ chức Đảng, đảng viên, trước hết là cấp ủy, người đứng đầu cấp uỷ đối với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Tăng cường kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
Xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, hàng năm của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, đơn vị. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc khắc phục, sửa chữa khuyết điểm sau kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI); các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm: quản lý tài chính, đất đai, đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản; những nơi có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc tập trung, dân chủ, mất đoàn kết… Tăng cường công tác giám sát đối với tổ chức Đảng và đảng viên, nhất là người đứng đầu về phẩm chất, đạo đức, việc chấp hành các quy định của Đảng, thực hiện chức trách, nhiệm vụ...
Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa uỷ ban kiểm tra các cấp với các cơ quan có liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Tập trung việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là các tố cáo về tham nhũng, biểu hiện gây phiền hà, sách nhiễu, tha hóa về tư tưởng, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Kiên quyết xử lý nghiêm tổ chức Đảng, đảng viên sai phạm.
Kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của cơ quan kiểm tra các cấp. Tiếp tục thực hiện Thông báo số 312-TB/TW của Ban Bí thư về “luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển lãnh đạo ủy ban kiểm tra sang các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra”.
4- Nâng cao chất lượng công tác dân vận, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận xã hội
Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Tăng cường phối hợp giữa các lực lượng làm công tác dân vận; gắn công tác dân vận với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Chỉ đạo thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Thường xuyên nắm diễn biến tư tưởng của các tầng lớp nhân dân, kịp thời tham mưu với cấp uỷ các giải pháp xử lý phù hợp ngay từ cơ sở, địa bàn dân cư. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo”, nhân rộng điển hình ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác vận động quần chúng, đổi mới tác phong công tác theo phương châm trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân.
Đổi mới nội dung, hình thức hoạt động, đặc biệt là công tác tuyên truyền, sinh hoạt và tập hợp đoàn viên, hội viên của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, nhất là ở khu vực nông thôn, các khu công nghiệp. Chăm lo quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên. Đẩy mạnh công tác vận động hội viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể theo quy định của Bộ Chính trị.
Phấn đấu: Mặt trận Tổ quốc có 85-90% ban công tác mặt trận vững mạnh; Đoàn Thanh niên: tập hợp được 75% thanh niên trong độ tuổi tham gia sinh hoạt Đoàn, 87% đoàn cơ sở vững mạnh; Liên đoàn Lao động: phát triển 3 vạn đoàn viên công đoàn mới, có trên 85% công đoàn cơ sở vững mạnh; Hội Phụ nữ: tập hợp trên 80% phụ nữ, 100% cơ sở Hội Phụ nữ đạt vững mạnh; Hội Nông dân: tập hợp 87-90% nông dân, có 80% Hội Nông dân cơ sở đạt vững mạnh; Hội Cựu chiến binh: tập hợp 80% cựu chiến binh tham gia sinh hoạt, 96% cơ sở hội đạt trong sạch, vững mạnh.
5- Xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, tăng cường hiệu lực, hiệu quả điều hành, đảm bảo sự thống nhất từ tỉnh đến cơ sở
Tiếp tục đổi mới hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp, tập trung phát huy dân chủ, trách nhiệm và năng lực của đại biểu hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát, nắm bắt, phản ánh nguyện vọng của nhân dân và chất vấn tại kỳ họp. Đổi mới sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với hội đồng nhân dân; đảm bảo các điều kiện cần thiết về tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất, trang thiết bị để hội đồng nhân dân các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ.
Tăng cường năng lực, hiệu lực, hiệu quả điều hành của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính; kiên quyết xử lý các trường hợp buông lỏng quản lý, gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong thực thi công vụ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Quan tâm chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã. Quyết liệt thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa trên tất cả các lĩnh vực; coi đây là một trong những khâu đột phá quan trọng của tỉnh. Triển khai thực hiện Chính phủ điện tử gắn với việc đổi mới phương thức điều hành của hệ thống hành chính. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về tôn giáo. Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước các hoạt động tôn giáo, đảm bảo tự do tín ngưỡng và tuân thủ pháp luật. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua khen thưởng.
6- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp; giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, củng cố niềm tin của nhân dân
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác nội chính, tập trung vào công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trước hết triển khai làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục; đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện việc công khai, minh bạch các cơ chế, chính sách, dự án đầu tư. Tăng cường kiểm tra các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng; thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản đối với cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp. Phát huy vai trò của nhân dân, các đoàn thể, cơ quan báo chí trong việc phát hiện, tố cáo tham nhũng, tiêu cực. Kiên quyết xử lý nghiêm sai phạm, đảm bảo không có vùng cấm trong xử lý sai phạm; bảo vệ và khen thưởng người tích cực chống tham nhũng, tiêu cực.
Tiếp tục triển khai thực hiện chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, thực hiện tốt các bước điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đảm bảo khách quan, trung thực; tránh oan sai, gây thiệt hại cho tổ chức và công dân. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thực hiện tốt công tác thanh tra. Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và người đứng đầu trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân, hạn chế các vụ khiếu kiện kéo dài, đông người.
IV- Công tác quốc phòng, an ninh
1- Công tác quốc phòng
Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Xây dựng thế trận “Quốc phòng toàn dân” gắn với thế trận “An ninh nhân dân” vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc; nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang địa phương, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng. Quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh vùng biển.
Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về công tác quốc phòng, an ninh. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, huấn luyện, diễn tập quân sự, phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn cho các đối tượng theo quy định. Thực hiện nghiêm công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ; có chính sách phù hợp đối với lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ. Quan tâm thực hiện chính sách hậu phương quân đội, trong đó tập trung giải quyết tồn đọng về chính sách sau các cuộc chiến tranh; quan tâm dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự; đẩy mạnh phong trào "Đền ơn đáp nghĩa" đối với thương binh, gia đình liệt sỹ gặp khó khăn.
2- Công tác an ninh - trật tự
Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trong đó lực lượng công an nhân dân làm nòng cốt. Thực hiện Chiến lược an ninh quốc gia trong tình hình mới. Nâng cao cảnh giác, kịp thời phát hiện và làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Thực hiện tốt các chương trình, mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm, tăng cường quản lý Nhà nước về trật tự an toàn giao thông, phòng cháy chữa cháy… Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Thúc đẩy và nhân rộng các mô hình quần chúng tự quản, xây dựng khu dân cư an toàn về an ninh, trật tự. Tăng cường xây dựng lực lượng công an xã, bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp.
Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh; tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương, điều lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ trong công an nhân dân gắn với đẩy mạnh thực hiện phong trào “Công an nhân dân học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”.
V- Một số giải pháp cần tập trung chỉ đạo trong nhiệm kỳ 2015-2020
1- Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội
1.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo cơ sở khoa học, thực tiễn và tầm nhìn xa; mời các đơn vị tư vấn có uy tín, kể cả tư vấn nước ngoài để xây dựng những quy hoạch chủ yếu của tỉnh và Thành phố Nam Định.
1.2. Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ, đủ mạnh, hiệu quả để đào tạo và thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao; quan tâm huy động sự đóng góp của người Nam Định đang sinh sống và làm việc ở trong và ngoài nước phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
1.3. Cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn, trong đó tập trung đổi mới thái độ, phong cách giao tiếp, phương pháp tiếp cận, thủ tục hành chính, chuẩn bị hạ tầng, ban hành các chính sách hỗ trợ trước, trong và sau quá trình đầu tư. Kiên trì liên hệ tìm kiếm, vận động một số doanh nghiệp lớn có công nghệ hiện đại, có khả năng đóng góp lớn cho ngân sách địa phương vào đầu tư.
1.4. Tập trung cao các nguồn lực của các thành phần kinh tế cho phát triển hạ tầng giao thông, y tế, xây dựng nông thôn mới...
1.5. Tăng cường sự phối hợp với các địa phương khác, trọng tâm là các tỉnh, thành phố trong vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ và các cơ quan ngoại giao, tổ chức tài chính quốc tế.
1.6. Phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, nhất là nguồn lực về con người, văn hóa, giáo dục, truyền thống cách mạng...
2- Nhóm giải pháp về công tác xây dựng Đảng
2.1. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc kế hoạch khắc phục, sửa chữa khuyết điểm sau kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI); triển khai có kết quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, tạo bước chuyển biến mạnh trong việc “làm theo”, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt.
2.2. Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm của cấp uỷ Đảng. Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương thức lãnh đạo, nhất là lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng theo hướng thiết thực, phù hợp, hiệu quả. Phân định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân, trách nhiệm của người đứng đầu.
2.3. Duy trì nền nếp, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tập trung vào các nội dung chính là cung cấp thông tin, định hướng về tư tưởng và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị cụ thể, thiết thực của tổ dân phố, thôn xóm và cơ quan, đơn vị. Làm tốt việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên và quản lý chặt chẽ đảng viên gắn với việc rèn luyện, tu dưỡng theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
2.4. Tạo các điều kiện tốt nhất để đảm bảo phát huy dân chủ, đi liền với nâng cao dân trí. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan tham mưu của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, nắm bắt và xử lý kịp thời các vướng mắc, khắc phục tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, quan liêu, xa rời thực tiễn.
2.5. Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức; nâng cao trình độ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ các cơ quan tham mưu của Đảng, nhất là năng lực nghiên cứu và năng lực giải quyết thực tiễn. Thực hiện tốt đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong lãnh đạo, điều hành và hoạt động của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể.
3- Nhóm giải pháp về quốc phòng - an ninh, tư pháp
3.1. Cụ thể hóa nhiệm vụ công tác quân sự quốc phòng địa phương, công tác xây dựng khu vực phòng thủ trong chương trình công tác của cấp ủy, các quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Nâng cao hiệu quả các cuộc diễn tập quân sự…
3.2. Nhân rộng các mô hình điển hình trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng một số mô hình mới phù hợp với tình hình mới. Tăng cường các điều kiện bảo đảm hoạt động cho lực lượng an ninh ở cơ sở.
3.3. Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tăng cường hỗ trợ, tạo điều kiện cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Bước vào giai đoạn mới, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định tiếp tục phát huy truyền thống và những thành tựu đã đạt được, đoàn kết thống nhất, năng động, sáng tạo; quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX; tạo bước phát triển mạnh mẽ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng tỉnh Nam Định giàu mạnh, văn minh./.
---------------------
(1) Ngành cơ khí, điện, gia công kim loại tăng trưởng bình quân 19%/năm, chiếm 25,6% giá trị sản xuất công nghiệp và 12,1% tổng số lao động công nghiệp. Ngành dệt may, da giày tăng trưởng bình quân trên 22,1%/năm, chiếm 34,7% giá trị sản xuất công nghiệp và 38,7% tổng số lao động công nghiệp. Ngành chế biến thực phẩm, đồ uống tăng trưởng bình quân 20,6%/năm, chiếm 6,3% giá trị sản xuất công nghiệp và 8,3% tổng số lao động công nghiệp. Ngành sản xuất vật liệu xây dựng tăng trưởng bình quân 19,5%/năm, chiếm 4,2% giá trị sản xuất công nghiệp và 5,4% tổng số lao động công nghiệp. Ngành công nghiệp hoá chất tăng bình quân 22,7%/năm, chiếm 3,1% giá trị sản xuất công nghiệp; trong đó công nghiệp dược có tốc độ tăng cao (26,4%/năm), chiếm 0,9% tổng số lao động công nghiệp.
(2) Đến cuối năm 2014 có 162 dự án được cấp phép đầu tư vào các khu công nghiệp (139 dự án trong nước với tổng số vốn đăng ký 8.126 tỷ đồng, 23 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 292 triệu USD); trong đó 127 dự án đã đi vào sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho 25 nghìn lao động.
(3) Trên địa bàn toàn tỉnh hiện có 16 ngân hàng thương mại, 4 Cty tài chính, 41 quỹ tín dụng với 226 địa chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ ngân hàng.
(4) Trên địa bàn hiện có 4 trường đại học, 6 trường cao đẳng, 12 trường trung học chuyên nghiệp và trung cấp nghề, 16 trung tâm giáo dục thường xuyên và trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.
(5) Toàn tỉnh có 278 cơ sở y tế công lập (19 bệnh viện tuyến tỉnh và huyện, 229 trạm y tế xã, phường, thị trấn) và trên 1.100 cơ sở y dược tư nhân.
(6) Đến năm 2015, có trên 44% làng, khu dân cư, 78% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hoá; 80% cơ quan, trường học đạt nếp sống văn hoá.
(7) Toàn tỉnh đã mở 866 lớp lý luận chính trị và quản lý Nhà nước cho hơn 94 nghìn lượt học viên (Trong đó, cao cấp lý luận chính trị 837 học viên; trung cấp 5.630 học viên; sơ cấp 1.448 học viên…). Đến năm 2015, toàn Đảng bộ có 69,5% đảng viên có trình độ lý luận sơ cấp, 19,1% có trình độ lý luận trung cấp, 2,1% có trình độ lý luận cử nhân, cao cấp.
(8) Trong nhiệm kỳ đã bổ nhiệm mới, giới thiệu ứng cử, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm lại 283 đồng chí (trong đó luân chuyển 59 đồng chí).
(9) Trong 5 năm đã tặng Huy hiệu Đảng cho 27.277 đảng viên (trong đó 1 Huy hiệu 70 năm, 453 Huy hiệu 65 năm, 720 Huy hiệu 60 năm, 1.492 Huy hiệu 55 năm, 4.953 Huy hiệu 50 năm, 6.827 Huy hiệu 40 năm, 12.831 Huy hiệu 30 năm); xét phong tặng, truy tặng danh hiệu Lão thành cách mạng cho gần 400 cán bộ tiền khởi nghĩa.
(10) Trong nhiệm kỳ, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 3.261 lượt tổ chức Đảng và 7.917 đảng viên; giám sát 2.059 lượt tổ chức Đảng, 5.011 đảng viên; giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng 3 trường hợp. Ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 372 đảng viên và 85 tổ chức Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát 5.094 tổ chức Đảng; kiểm tra việc thi hành kỷ luật đối với 1.630 tổ chức Đảng; kiểm tra việc quản lý, sử dụng ngân sách 314 tổ chức Đảng; giám sát 2.026 tổ chức Đảng, 4.946 đảng viên; giải quyết tố cáo 284 đảng viên và 11 tổ chức Đảng; giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng 06 trường hợp. Đã thi hành kỷ luật đối với 45 tổ chức Đảng (trong đó: khiển trách 28, cảnh cáo 17) và 1.113 đảng viên (trong đó: khiển trách 668, cảnh cáo 299, cách chức 18, khai trừ 118).
(11) Đã sửa đổi 249 thủ tục; ban hành mới 159 thủ tục và bãi bỏ 91 thủ tục hành chính không còn phù hợp. 17/19 cơ quan chuyên môn cấp tỉnh; 100% huyện, thành phố và xã, phường, thị trấn đã thực hiện cơ chế một cửa. 43 sở, ban, ngành, chi cục và ủy ban nhân dân huyện đã áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và 2008. Qua từng năm (năm 2012, xếp thứ 39/63 tỉnh, thành trong cả nước).