Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, chiều 30-5 tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội họp phiên toàn thể ở hội trường, thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương điều hành phiên họp.
Đồng chí Nguyễn Hải Dũng, TUV, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nam Định phát biểu thảo luận. |
Phát biểu thảo luận, đồng chí Nguyễn Hải Dũng, TUV, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nam Định đồng tình với việc bổ sung Điều 21 về hoạt động quản lý nguồn lực tài chính cho công nghiệp quốc phòng, an ninh và Điều 22 về Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh trong dự thảo luật. Đồng thời phân tích, làm rõ sự cần thiết phải ban hành những quy định này với 4 nội dung.
Thứ nhất, khoản 1 Điều 3 dự thảo luật về giải thích từ ngữ đã khẳng định “công nghiệp quốc phòng, an ninh có nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất, sửa chữa, cải hoán, cải tiến, hiện đại hóa, tăng hạn sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, vật tư kỹ thuật và các sản phẩm, dịch vụ khác phục vụ quốc phòng, an ninh”. Với nội hàm như vậy, công nghiệp quốc phòng, an ninh có nhiệm vụ rất nặng nề, khối lượng công việc rất lớn, cần phải sử dụng nguồn lực, nguồn nhân lực chất lượng cao như chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư; sử dụng vật tư có giá đắt đỏ, ví dụ như thép đặc biệt, vật liệu bán dẫn, chip, phần mềm... Do đó, chi phí để thực hiện nhiệm vụ mà luật giao cho công nghiệp quốc phòng, an ninh sẽ rất lớn, cần huy động nhiều nguồn lực để đáp ứng số kinh phí này như từ ngân sách Nhà nước, từ nguồn thu của doanh nghiệp, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách. Vì thế, những quy định tại Điều 21, Điều 22 dự thảo luật sẽ giải quyết được yêu cầu này.
Thứ hai, hiện nay các cuộc xung đột vũ trang trên thế giới sử dụng các loại vũ khí mới có tầm hoạt động rất xa, ví dụ những UAV bay xa đến 1.500km hoặc các cuộc tấn công mạng hàng ngày gây thiệt hại rất lớn cho quốc gia, doanh nghiệp và người dân, như việc chiếm quyền điều khiển, thu thập thông tin trái phép. Đây là những vũ khí và hoạt động có thể là nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả những nguy cơ này thì thực lực, tiềm lực quốc phòng, an ninh phải được nâng lên sao cho có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, từng yếu tố, từng thành phần cấu thành thực lực, tiềm lực quốc phòng, an ninh phải mạnh lên và công nghiệp quốc phòng, an ninh là một thành phần của thực lực, tiềm lực này phải được chủ động trong hoạt động. Vì thế, những cơ chế, chính sách cho công nghiệp quốc phòng, an ninh phải có tính đặc thù, vượt trội hơn so với chế độ, chính sách hiện hành ở các luật có liên quan. Quy định tại Điều 21 của Điều 22 dự thảo luật đáp ứng được đòi hỏi này.
Thứ ba, tại khoản 3 Điều 5 về nguyên tắc xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp quy định “tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại kết hợp với chủ động hội nhập quốc tế, trong đó có nội lực là yếu tố quyết định”. Nguyên tắc này định hướng cho luật quy định dành nhiều chính sách ưu việt để tự thân công nghiệp quốc phòng, an ninh với ý nghĩa là tự lực, tự cường, lớn lên hùng mạnh hơn và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Tất nhiên, như Báo cáo 843 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp thì tự lực, tự cường không phải là khép kín mà phải kết hợp giữa hợp tác quốc tế với phát huy nội lực trong nước. Trong những chính sách ưu việt này, có thể thấy hoạt động quản lý nguồn lực tài chính Điều 21 và Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh Điều 22 là quy định tạo nhiều thuận lợi hơn để công nghiệp quốc phòng, an ninh chủ động trang bị, bố trí kinh phí cho nghiên cứu, đầu tư, thiết kế, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ so với quy định hiện hành. Nói ngược lại, Điều 21 và Điều 22 rất phù hợp, đúng hướng với nguyên tắc xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp tại khoản 3 Điều 5 dự thảo luật. Đây là quy định đúng đắn và hợp lý.
Thứ tư, nội dung giải trình tại trang 27, 28, 29 Báo cáo 843 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sự cần thiết và các cơ sở chính trị pháp lý thực tiễn để thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh là rất đúng. Bởi về cơ sở chính trị, Kết luận số 75 ngày 24-4-2024 của Bộ Chính trị chỉ đạo cần nghiên cứu thành lập Quỹ Phục vụ nhiệm vụ phát triển công nghiệp quốc phòng và an ninh. Về cơ sở thực tế, thứ nhất là ngân sách hàng năm chưa đủ, thứ hai là huy động vốn ngoài ngân sách còn vướng mắc, thứ ba là các loại quỹ liên quan đến lĩnh vực này không phát huy hiệu quả, không đủ nguồn lực, thứ tư là kinh nghiệm quốc tế các nước có nền công nghiệp quốc phòng phát triển đều có quỹ. Như vậy, thực tế còn rất nhiều khó khăn. Về cơ sở pháp lý, hiện nay chúng ta đang phải vận dụng, sử dụng quỹ đặc biệt theo cơ chế đặc thù do cấp có thẩm quyền quyết định cho các chương trình, dự án đặc biệt. Như vậy, việc này rất vướng trong thủ tục khi triển khai những chương trình, dự án đặc biệt. Ngoài ra, khoản 1 Điều 22 cũng quy định để nhiệm vụ chi của Quỹ công nghiệp quốc phòng an ninh không trùng với nhiệm vụ chi của ngân sách Nhà nước. Như vậy điều này không vi phạm khoản 11 Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước về nguyên tắc quản lý ngân sách Nhà nước./.
Tin: Văn Trọng
Ảnh: Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh cung cấp
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin