Đi và viết về Trường Sa - Cơ hội để người làm báo trưởng thành
Làm báo không chỉ là nghề nghiệp, mà còn là sứ mệnh. Hơn 30 năm gắn bó với Báo Nam Định, tôi đã có vô số chuyến đi, nhưng chuyến công tác ra Trường Sa năm 2011 vẫn là một dấu ấn đặc biệt trong sự nghiệp cầm bút. Đó là chuyến đi dài ngày nhất, gian nan nhất và cũng là cơ hội để tôi thực sự sống với nghề, sáng tạo ra những tác phẩm báo chí mang dấu ấn cá nhân, đồng thời cũng phản ánh rõ nét vai trò của cơ quan báo chí địa phương trong việc tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
![]() |
| Phóng viên Báo Nam Định và các đồng nghiệp tác nghiệp trên đảo Song Tử Tây, Quần đảo Trường Sa. (Ảnh Hoàng Tuấn) |
Nhờ sự tin tưởng và tạo điều kiện từ Ban Biên tập, tôi đã được tham gia chuyến công tác đặc biệt này, để tận mắt chứng kiến cuộc sống của những người lính đảo, cảm nhận sâu sắc hơn về chủ quyền quốc gia và mang về những thước tư liệu quý giá, góp phần nâng cao nhận thức của công chúng về Trường Sa.
Theo kế hoạch, chuyến đi thăm Trường Sa ấy, Đoàn công tác của tỉnh Nam Định sẽ thăm, động viên cán bộ, chiến sĩ và nhân dân 5 đảo nổi, 2 đảo chìm, nhà dàn DK1 và dàn khoan mỏ Bạch Hổ. Nhưng biển cả không chiều lòng người. Sóng lớn khiến con tàu chao đảo dữ dội, phần lớn thành viên đoàn bị say sóng nặng. Chuyến thăm buộc phải hủy bỏ. Sau chuyến đi, tôi đã viết loạt bài 6 kỳ “Nào đâu xa - Trường Sa”. Đây không chỉ là loạt bài dài nhất, chi tiết nhất về Trường Sa trên báo tỉnh, chuyển tải một cách chân thực nhất những gì đã được chứng kiến, cảm nhận.
Những khoảnh khắc không thể quên
Trường Sa không chỉ là nơi thử thách sức chịu đựng của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt mà còn là nơi khắc sâu những cảm xúc khó phai.
Nam Yết là đảo đầu tiên chúng tôi dừng chân khi trời đã nhá nhem tối. Háo hức vì lần đầu nhìn thấy cây bàng vuông - cây đặc sản riêng có ở Trường Sa nên chúng tôi bật đèn Flash của điện thoại di động soi để chụp những bông hoa to, trắng muốt lung linh dưới ánh đèn… Thấy vậy, một đồng chí sĩ quan của đảo đã lấy đèn pin từ tầng 2 soi xuống cho chúng tôi chụp rồi râm ran kể cho nghe về cây bàng vuông, cây bão táp cũng như quá trình xây dựng và bảo vệ đảo mà quên đã đến giờ sinh hoạt, giao lưu giữa đoàn với cán bộ, chiến sĩ trên đảo. Ở Trường Sa lớn, tôi có dịp hỏi chuyện học hành một cậu bé chưa tròn 10 tuổi. Cháu hào hứng khoe về lớp học đặc biệt của mình, nơi có gần chục người đủ các trình độ: tập viết, tập đọc, lớp 1, lớp 2… do những người thầy giáo quân hàm xanh tận tình giảng dạy. Rồi cháu bỗng nhìn xa xăm, nói một câu khiến tôi lặng người: “Cháu chỉ mong học hết lớp 3 để được vào đất liền học tiếp…”. Một mong ước giản dị, nhưng lại khiến tôi trăn trở mãi về sự thiếu thốn ở nơi đảo xa, nơi mà việc học hành cũng là một hành trình đầy thách thức. Ở đảo Sinh Tồn tôi có thời gian lang thang ven bờ trong lúc mọi người nghỉ trưa. Thấy tôi lội xuống nhặt những cành san hô gãy vụn được sóng đánh dạt vào, một chiến sĩ trẻ nhìn tôi rồi lặng lẽ quay về doanh trại. Khi ra mang một cây san hô trắng muốt, đã lũa nhẵn: “Tặng chú cây san hô. Sau này nhìn cây san hô, chú sẽ nhớ bọn cháu đang canh giữ đảo…”. Khoảnh khắc ấy khiến tôi nghẹn ngào. Hiện cây san hô ấy tôi vẫn đặt trang trọng trong tủ kính gia đình, như một lời nhắc nhở về những con người kiên cường ngày đêm bám biển, giữ đảo cho Tổ quốc.
Với “thâm niên” 16 năm trong quân ngũ và từng trải qua chiến trường, tôi luôn cảm thấy một sự gần gũi đặc biệt khi trò chuyện với những người lính biển - những con người thầm lặng, kiên cường, ngày đêm canh giữ biển trời của Tổ quốc. Chuyến đi này, tôi gặp một người lính già, ánh mắt ông trầm ngâm khi nhớ về quãng thời gian gắn bó với đảo từ những năm 1980, thuở vừa nhập ngũ. Ông kể: “Những năm ấy, nước ngọt hiếm hoi lắm. Sáng ra đánh răng, rửa mặt, mỗi người chỉ có một ca nước nhỏ, thế mà chúng tôi vẫn cố vắt kiệt chiếc khăn mặt để tưới cho gốc bí đỏ. Đến bữa liên hoan, rau bí tự trồng cũng chỉ có vài lá thôi…”. Tôi lặng người trước những tháng ngày gian khó ấy, nhưng điều khiến tôi xúc động hơn cả là sự kiên cường, lạc quan của những người lính nơi đầu sóng. Người huấn luyện chó nghiệp vụ say sưa chỉ cho tôi từng con một, kể về tính cách riêng của chúng. Anh bảo, để có một “lính khuyển” thực thụ, đâu phải ngày một ngày hai. Chúng là những chiến binh thầm lặng, có khả năng phát hiện người nhái xâm nhập - một nhiệm vụ tưởng chừng chỉ có con người mới làm được. Những người lính từng gắn bó với ngư dân thì hào hứng khoe cách câu cá độc đáo: “Cứ bắt được cá bé lại dùng làm mồi câu cá lớn hơn. Có lần may mắn, câu được con cá nặng cả tạ!”. Giọng họ rộn ràng, ánh mắt ánh lên niềm vui như trẻ thơ khi nhắc về những chiến lợi phẩm giữa đại dương bao la. Rồi có những câu chuyện về bão tố. Nhà dân bị bão quét sạch, các chiến sĩ phải vật lộn với sóng dữ, bám chặt vào cọc chờ trời sáng, chờ cơn cuồng phong qua đi để lại tiếp tục dựng lại nhà giàn. Họ chẳng quản hiểm nguy, chẳng ngại vất vả, chỉ một lòng hướng về nhiệm vụ - giữ biển, giữ trời cho Tổ quốc.
Lắng nghe những câu chuyện ấy, tôi chợt nhận ra, làm báo không chỉ là ghi chép sự kiện, mà còn là một hành trình sống để cảm nhận, để thấu hiểu. Nếu không đặt chân lên hòn đảo xa, nếu không ngồi giữa những người lính biển trong một đêm gió lộng, tôi sẽ không thể cảm nhận trọn vẹn cái lạnh thấm vào da thịt, cái thiếu thốn thường nhật, hay niềm vui bé nhỏ họ trân quý. Nhưng hơn thế, trong vai trò một người làm báo, tôi nhận ra mình đang có một đặc ân: được tận mắt chứng kiến, được lắng nghe, được chạm vào và khắc ghi những khoảnh khắc ấy - những câu chuyện của sự hy sinh, lòng quả cảm và cả những niềm vui nhỏ bé giữa nơi đầu sóng ngọn gió, những câu chuyện không chỉ nằm trên trang giấy, mà còn hằn sâu trong tim, để khi kể lại, vẫn vẹn nguyên những rung động và niềm tự hào.
Một chuyện mà tôi không thể quên đó là lần vào đảo chìm. Do điều kiện nên chỉ có lãnh đạo tỉnh và anh em phóng viên chúng tôi được vào. Ở đảo chìm thứ nhất khi từ xuồng lên tàu do sóng đánh mạnh tôi được người dưới xuồng đưa lên và các anh ở tàu giơ tay đỡ, kéo. Chẳng may máy ảnh của tôi rơi xuống ngập trong nước mặn mà tôi không hay. Mãi đến khi anh Bùi Đức Long, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh vớt, đưa lại cho tôi, tôi mới biết. Vội vàng tắt máy, lấy pin và rút thẻ ra rồi mới kiểm tra máy ảnh thì máy đã hỏng rồi. May thẻ vẫn còn sử dụng tốt và các ảnh trước đó vẫn còn nhưng còn một nửa chặng đường nữa tôi tác nghiệp bằng gì?. Đúng lúc ấy, anh Trịnh Công Hoán trong đoàn đã đưa máy ảnh của anh cho tôi, chỉ đơn giản nói: “Nhà báo cứ lấy máy này mà dùng, tôi chỉ chụp làm kỷ niệm thôi…”. Đúng là “buồn ngủ gặp chiếu manh”, nhờ nghĩa cử ấy, tôi đã có thể tiếp tục ghi lại những khoảnh khắc quý giá của chuyến đi. Khi trở về, tôi tặng toàn bộ ảnh cho tòa soạn, không giữ lại một tấm nào cho riêng mình.
Nhìn lại chuyến đi Trường Sa, tôi càng thấm thía vai trò quan trọng của một cơ quan báo chí địa phương như Báo Nam Định. Không chỉ đưa tin, không chỉ phản ánh sự kiện, Báo Nam Định còn là một cầu nối, một tiếng nói mạnh mẽ, góp phần lan tỏa những câu chuyện về Trường Sa đến với đông đảo độc giả. Nhờ sự chỉ đạo sát sao của Ban Biên tập, nhờ tinh thần trách nhiệm của tập thể phóng viên, Báo Nam Định đã và đang khẳng định vị thế của mình trong dòng chảy báo chí hiện đại. Những kỷ niệm về Trường Sa vẫn còn ăm ắp trong tôi. Và tôi tin rằng, dù thời gian trôi qua, tinh thần và sứ mệnh của Báo Nam Định vẫn sẽ tiếp tục lan tỏa, như chính những người lính đảo ngày đêm vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió, kiên trì giữ vững chủ quyền biển trời của Tổ quốc.
Cù Tất Thắc








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin