Di tích lịch sử - văn hóa Đình Ruối, thôn Ngọc Chuế, xã Yên Nghĩa (Ý Yên) được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận xếp hạng năm 1992. Đình thờ Kiến Quốc phu nhân Lương Thị Minh Nguyệt cùng chồng là Đinh Công Tuấn.
Tiền đường Đình Ruối có nhiều cấu kiện được chạm khắc công phu. |
Theo các tư liệu lịch sử năm 1406, nhà Minh đem 20 vạn quân sang xâm lược nước ta. Năm 1407, tướng giặc Mộc Thạnh sai quân lấy đất núi Thiên Kiện (núi Bô), đập phá tháp Chương Sơn (xã Yên Lợi ngày nay) vận chuyển về cánh đồng Lai Cách (xã Yên Thọ) để đắp thành Cổ Lộng nhằm án ngữ đường thủy trên sông Đáy và đường bộ Thiên Lý từ Bắc vào Nam, là bàn đạp để giặc Minh cai trị và đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân. Trước cảnh ấy, bà Lương Thị Minh Nguyệt cùng chồng là ông Đinh Công Tuấn ở cách thành Cổ Lộng khoảng 3km đã bàn với chồng tìm cách tiêu diệt giặc ngoại xâm. Bà mở quán bán hàng ăn ngay bên thành Cổ Lộng để vào nội thành nắm cách bố trí phòng bị của giặc. Với bản tính thông minh, khéo léo bà dễ dàng làm quen với nhiều tướng giặc cùng quân lính nhà Minh. Do đó, các lối đi lại, cách bố trí quân lương, vũ khí, các trại trú quân đều được bà ghi chép thành sơ đồ. Khi Lê Lợi tiến quân ra Đông Quan, đang tìm cách để đánh thành Cổ Lộng thì bà tìm đến dâng tấm sơ đồ vẽ kho lương thực và vũ khí, đề xuất kế sách hạ thành. Một đêm cuối năm Bính Ngọ 1426, trong tiết trời giá rét, bà đem theo một số thôn nữ trẻ vào thành mang rượu, thịt bán cho giặc. Quân giặc không đề phòng, sau khi ăn uống no say liền chui vào túi để ngủ. Bà và các thôn nữ nhanh chóng thắt thật chặt các miệng túi. Khi thành chỉ còn lại đám lính nhỏ canh gác, bà mở cửa thành để ông Đinh Công Tuấn cùng binh lính phục sẵn dẫn đại quân xông vào. Thành Cổ Lộng nhanh chóng thất thủ.
Những hàng ruối hàng trăm năm tuổi còn lưu giữ tại Đình. |
Sau khi chiến thắng giặc Minh, vợ chồng bà không nhận chức quan Vua Lê Thái Tổ ban mà chỉ xin ban ruộng đất và miễn sưu thuế 3 năm cho nhân dân trong vùng. Vợ chồng bà Lương Thị Minh Nguyệt sống trong cảnh bình yên của quê nhà thì bất ngờ ngày 25-11-1443 âm lịch, cả hai bỗng dưng không bệnh mà qua đời. Vua cho lập đền thờ Kiến Quốc ở làng, đem thi thể 2 người an táng sau đền, ban cho thôn 100 mẫu ruộng tốt để làm việc tế tự. Năm 1902, đời Vua Thành Thái năm thứ 13, đền được trùng tu quy mô lớn, đổi đền thành Đình Kiến Quốc. Đình nằm cạnh đường liên xã, phía trước đình là một dậu bằng những cây ruối cổ thụ trông như những bức tường chạy dài, nối tiếp nhau nên nhân dân địa phương gọi là Đình Ruối. Đình Ruối sau nhiều lần trùng tu vẫn giữ được nét kiến trúc cổ truyền thống. Tiền đường Đình Ruối gồm 5 gian với 4 bộ vì làm theo kiểu chồng rường giá chiêng. Hệ thống vì kèo, các xà chạm khắc công phu với các đề tài tứ linh, tứ quý. Xà dọc tại gian giữa được chạm lưỡng long chầu nguyệt có những lớp đao mác nhiều tầng tiêu biểu của phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê (thế kỷ XVII-XVIII). Hậu cung gồm 4 gian được ngăn cách với bên ngoài bằng một hệ thống cửa. Vì kèo phía trên làm kiểu chồng rường. Tất cả các con rường chạm khắc công phu chủ yếu là họa tiết hình rồng tạo sự uy nghiêm, linh thiêng cho nơi đặt ngai và bài vị vợ chồng Kiến Quốc phu nhân.
Hàng năm, vào ngày 25-11 âm lịch, nhân dân địa phương nô nức mở hội để tưởng nhớ Kiến Quốc phu nhân Lương Thị Minh Nguyệt. Lễ hội được diễn ra gồm nhiều hoạt động nổi bật như: Lễ yên vị nhà thờ tổ, lễ rước bánh vưng lên đền, lễ chiếu văn, lễ rước Thánh về đình, lễ dâng hương... Đặc biệt, lễ hội rước Thánh về đình được tổ chức long trọng và trang nghiêm. Trong đó, đi trước gồm có kiệu ông và kiệu bà. Kiệu ông do 6 nam khiêng, còn kiệu bà do 6 nữ khiêng, theo sau là 6 kiệu thờ thành hoàng làng của các thôn./.
Bài và ảnh: Viết Dư