Phát huy thế mạnh ngành nghề cơ khí chế tạo các loại máy móc phục vụ sản xuất, đời sống, ở các ở xóm 6, 7 xã Xuân Tiến (Xuân Trường) phát triển mạnh nghề chế biến lương thực - thực phẩm với các sản phẩm chính là bún khô, bánh đa gạo, miến dong. Theo ước tính của UBND xã, mỗi ngày, gần 100 hộ sản xuất sử dụng 10-13 tấn nguyên liệu (gạo, bột dong). Từ năm 2012, làng nghề chế biến lương thực - thực phẩm xóm 6, 7 xã Xuân Tiến đã được UBND tỉnh công nhận đủ các tiêu chí làng nghề theo quy định của Bộ NN và PTNT.
Sản xuất miến dong tại cơ sở của anh Mai Văn Tuyến, xóm 7, xã Xuân Tiến. |
Nghề xưa
Cụ Ngô Văn Hưu, năm nay tròn 80 tuổi, người có thâm niên trên 50 năm gắn bó với nghề làm miến dong, miến gạo cho biết: Nghề làm miến truyền thống của xã Xuân Tiến có lịch sử hình thành gần trăm năm tại các xóm 6, 7. Nghề này nhọc nhằn, vất vả lắm bởi tất cả các công đoạn sản xuất đều rất tỉ mỉ, phải làm thủ công và phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết. Chỉ những hôm trời nắng mới làm được, còn ngày mưa hoặc thời tiết ẩm ướt, âm u thì đành nghỉ vì nếu có cố làm thì sản phẩm cũng không đạt tiêu chuẩn. Nghề này phải tỉ mỉ từ khâu chọn nguyên liệu; gạo phải là loại gạo khô, bột dong phải mịn đều. Gạo phải ngâm từ tối hôm trước. Đến khoảng 4 giờ sáng, khi gạo đã “ngấm” no nước mới mang ra xóc sạch, để ráo rồi đem xay bằng cối đá. Công đoạn xay bột là vất vả nhất; người đảm nhiệm khâu này thường là trai tráng mới đủ sức khỏe để có thể quay đều tay trong suốt quá trình để bột mịn, nhuyễn; vừa quay vừa phải thường xuyên tiếp nước để bột không bị “sát”. Sau đó là công đoạn tráng bánh. Dụng cụ để tráng bánh làm miến, bánh đa sợi thường là nồi 30 (đường kính khoảng 60-70cm); còn bánh đa quạt thì dùng nồi 20 (đường kính khoảng 40-50cm). Bột xay đến đâu phải tráng đến đó, bánh tráng xong được trải đều ra các phên đan bằng tre, nứa để phơi cho khô. Làm bánh đa quạt còn thêm một công đoạn rắc vừng đều lên trên mặt khi bánh còn nóng. Bánh tráng để làm miến, bánh đa khi phơi khô đến 70-80% thì dỡ khỏi phên, mang vào thái thành sợi rồi phơi lại thật khô. Nghề miến xưa nhiều công đoạn, lại sản xuất hoàn toàn thủ công nên sản lượng thấp. Mỗi mẻ miến cần từ 3-4 lao động làm việc cật lực và chỉ sản xuất được khoảng từ 30-40kg nguyên liệu tương đương gần 30kg sản phẩm miến, bánh đa sợi. Vì thế, trước đây sản phẩm chỉ để phục vụ nhu cầu của nhân dân trong xã và vùng lân cận.
Nghề nay
Theo anh Ngô Văn Lục, xóm 7 (con trai cụ Hưu), người đã trên 20 năm làm nghề cho biết: Khoảng hai chục năm trở lại đây, nghề làm miến phát triển mạnh, thu hút nhiều hộ tham gia. Tạo ra “bước ngoặt” này là khi xã Xuân Tiến có điện lưới quốc gia. Cùng với đó là các loại máy móc hỗ trợ làm nghề đã được chế tạo, phát minh và đưa vào sử dụng ngay tại địa phương. Hầu hết các công đoạn nặng nhọc trước đây của nghề làm miến đã được máy móc thay thế từ xay bột đến tráng bánh, máy đảo bột, máy cắt “đùn sợi”. Đến cả công đoạn trước đây hoàn toàn phụ thuộc vào ông trời là phơi cũng được thay thế bằng lò sấy sử dụng than bùn và quạt gió. Từ đó, nghề của làng có đổi thay đáng kể, cường độ lao động giảm nhưng năng suất, sản lượng tăng vượt trội, thu nhập của người làm nghề cũng được cải thiện và nâng cao. Là một trong những cơ sở sản xuất lớn, chuyên sản xuất mặt hàng bún khô từ gạo, mỗi ngày cơ sở sản xuất của anh Lục tiêu thụ từ 1,5-2 tạ gạo nguyên liệu. 1kg gạo nguyên liệu sản xuất được 0,95kg bún khô. Gạo làm bún khô thường phải dùng giống Q5. Với giá bán từ 13 nghìn đồng/kg, sau khi trừ chi phí, mỗi kg cho thu nhập thực tế từ 1,7-2.000 đồng; thu nhập của người lao động cũng đạt từ 120-150 nghìn đồng/người/ngày. Chủng loại sản phẩm của làng nghề cũng thay đổi đa dạng hơn, sản phẩm chính là bún khô, ngoài ra còn có các loại miến dong, bánh đa sợi, bánh đa tấm, thu hút khoảng 80% số hộ trong làng nghề tham gia. Toàn làng nghề hơn 100 hộ chỉ có khoảng chục hộ còn sản xuất các loại miến gạo, bánh đa gạo, bánh đa quạt và 2 cơ sở sản xuất miến dong quy mô lớn (từ 5-7 lao động) của các ông Mai Văn Tuyến (xóm 7) và Nguyễn Văn Thinh (xóm 8). Năm 2009, ông Mai Văn Tuyến đầu tư trên 200 triệu đồng để lắp đặt hệ thống bể ngâm, đầu tư các loại máy tráng bánh, máy đảo bột, máy thái miến chuyên sản xuất miến dong. Hiện cơ sở sản xuất của ông ngày thường tiêu thụ từ 500-600kg bột dong, vào dịp từ tháng 8 âm lịch đến Tết Nguyên đán mỗi ngày phải sử dụng khoảng 1 tấn bột mới đủ hàng cung cấp cho thị trường. Ngoài 2 lao động của gia đình, cơ sở của ông Tuyến đã tạo việc làm thường xuyên cho 4-5 lao động với mức lương từ 120 nghìn đồng/người/ngày. Không chỉ tiêu thụ tại địa phương, các sản phẩm của làng nghề được thương lái về tận nơi thu mua cung ứng đi khắp các tỉnh trong cả nước.
Làng nghề làm miến Xuân Tiến không chỉ tạo việc làm cho trên 1.000 lao động địa phương với mức thu nhập từ 80-120 nghìn đồng/người/ngày, tổng doanh thu hằng năm khoảng 130-150 tỷ đồng. Là xã đa nghề nên các đối tượng lao động đều có thể tìm được việc làm phù hợp tại quê nhà. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực, nghề làm miến ở Xuân Tiến cũng tiềm ẩn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Các cơ sở sản xuất đều nằm trong khu dân cư; sản xuất ngay tại gia đình. Cả người sản xuất và cơ quan quản lý mới chỉ chú trọng phát triển nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, nên chưa quyết liệt đầu tư giải quyết các hệ quả về môi trường như: nước thải, không khí, tiếng ồn, ảnh hưởng trước hết đến những người trực tiếp sản xuất, gia đình và dân cư tại làng nghề. Nếu không sớm quan tâm đúng mức giải quyết vấn đề này thì cả chính quyền địa phương và người dân sẽ khó tránh khỏi những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững./.
Bài và ảnh: Thành Trung