70 năm Quốc hội Việt Nam (kỳ 8)
(Tiếp theo kỳ trước)
d) Các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Điểm mới của Quốc hội trong giai đoạn này so với các khóa Quốc hội trước đây là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thành lập các cơ quan chuyên môn trực thuộc giúp việc cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là Ban Công tác đại biểu, Ban Công tác lập pháp, Ban Dân nguyện và sau này là Viện Nghiên cứu lập pháp.
Ban Công tác đại biểu được thành lập theo Nghị quyết số 368/2003/NQ-UBTVQH ngày 17-3-2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về công tác đại biểu và giám sát, hướng dẫn hoạt động của HĐND theo quy định của pháp luật.
Ban Công tác lập pháp được thành lập theo Nghị quyết số 369/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 để phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về công tác xây dựng pháp luật theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, để tránh sự chồng chéo, trùng lặp giữa nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Công tác lập pháp với Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Ban Công tác lập pháp được giải thể. Các nhiệm vụ, quyền hạn do Ban thực hiện được chuyển về Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội một cách tương ứng.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh gặp mặt các đại biểu tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX, tháng 9-1992. Ảnh: Tư liệu |
Ban Dân nguyện được thành lập theo Nghị quyết số 370/2003/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về công tác dân nguyện theo quy định của pháp luật.
Viện Nghiên cứu lập pháp được thành lập theo Nghị quyết số 614/2008/UBTVQH12 ngày 29-4-2008 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có chức năng nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Quốc hội; tổ chức thông tin khoa học để hỗ trợ việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
đ) Văn phòng Quốc hội
Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành với việc lập lại chế định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì từ đó đến nay, cơ quan giúp việc của Quốc hội được gọi là Văn phòng Quốc hội. Ngày 17-10-1992, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết số 02 về tổ chức, nhiệm vụ của Văn phòng Quốc hội là cơ quan nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ mọi hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Theo Nghị quyết 02, Văn phòng Quốc hội có 19 đơn vị, trong đó có 17 đơn vị cấp vụ và hai đơn vị cấp phòng.
Trong nhiệm kỳ khóa XI, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 1-10-2003 thay thế cho Nghị quyết số 02 ngày 17-10-1992 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Theo Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11 thì “Văn phòng Quốc hội là cơ quan giúp việc của Quốc hội, có chức năng nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ các hoạt động của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội; các hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội”.
Đến nhiệm kỳ khóa XIII, để tiếp tục cải tiến, đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Văn phòng Quốc hội nhằm phục vụ tốt hơn hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 618/2013/UBTVQH13 ngày 10-7-2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11. Theo đó, hiện nay Văn phòng Quốc hội có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau:
1. Phục vụ Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong công tác xây dựng pháp luật; phối hợp phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
2. Phục vụ Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản và ban hành những nghị quyết, quyết định về kinh tế - xã hội, ngân sách Nhà nước, công trình quan trọng quốc gia, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, về tổ chức và nhân sự Nhà nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội;
3. Phục vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, TAND Tối cao và Viện KSND Tối cao; phục vụ hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội;
4. Phối hợp phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giám sát và hướng dẫn hoạt động của HĐND các cấp;
5. Phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; công bố việc bầu cử đại biểu HĐND các cấp;
6. Phục vụ công tác đối ngoại của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và các Ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
7. Phối hợp thực hiện việc tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và đề đạt nguyện vọng của công dân; phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội;
8. Nghiên cứu, phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; giúp Chủ tịch Quốc hội giữ mối liên hệ với các đại biểu Quốc hội; bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội; tạo điều kiện kinh phí và các điều kiện vật chất cần thiết cho đại biểu Quốc hội trong việc trình dự án luật, pháp lệnh và kiến nghị về luật, pháp lệnh;
9. Phục vụ hoạt động của Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong việc điều hành công việc chung của Quốc hội, bảo đảm việc thực hiện Nội quy kỳ họp Quốc hội, các Quy chế hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội;
10. Đề xuất cải tiến chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của đại biểu Quốc hội chuyên trách theo sự chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
11. Phối hợp phục vụ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định biên chế và quy định chính sách, chế độ đối với TAND, Viện KSND và Văn phòng Quốc hội;
12. Xây dựng dự kiến chương trình và tổ chức phục vụ các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các cuộc làm việc khác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các cuộc họp của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các cuộc làm việc của đại biểu Quốc hội chuyên trách; dự kiến và giúp tổ chức thực hiện chương trình công tác của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và các Ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
13. Chuẩn bị các dự án, đề án, báo cáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội giao; chuẩn bị các báo cáo công tác của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và các Ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
14. Đôn đốc việc chuẩn bị và bảo đảm thủ tục trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các dự án, đề án, báo cáo, tờ trình của các cơ quan và tổ chức hữu quan;
15. Tổ chức và quản lý công tác thông tin, báo chí, xuất bản, thư viện, bảo tàng, ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đại biểu Quốc hội;
16. Giúp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong việc giữ mối quan hệ với Chủ tịch nước, Chính phủ, Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam, TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao và các cơ quan, tổ chức hữu quan;
17. Phục vụ Chủ tịch Quốc hội chỉ đạo và tổ chức thực hiện kinh phí hoạt động của Quốc hội. Tổ chức và quản lý công tác đảm bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật của Quốc hội, quản lý tài sản của Quốc hội; tổ chức công tác hành chính, văn thư, in ấn, lưu trữ, bảo vệ và lễ tân của cơ quan;
18. Ban hành văn bản thuộc thẩm quyền; hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển và các quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật; tư vấn, hỗ trợ đại biểu Quốc hội trong việc lập, hoàn thiện hồ sơ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo yêu cầu của đại biểu Quốc hội;
19. Thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Văn phòng Quốc hội; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo quy định của pháp luật; hợp tác quốc tế;
20. Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật hoặc do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội giao.
Theo Nghị quyết 618/2013/UBTVQH13 thì Văn phòng Quốc hội có 28 vụ và đơn vị tương đương và được chia làm bốn loại: (i) các vụ trực tiếp giúp việc Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; (ii) các vụ, đơn vị tương đương cấp vụ trực tiếp giúp việc các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội; (iii) Các vụ, đơn vị tương đương cấp vụ phục vụ chung; (iv) các đơn vị sự nghiệp công lập.
Về công tác chỉ đạo, điều hành và chế độ trách nhiệm, Điều 5 Nghị quyết 417/2003/NQ-UBTV11 đã quy định rõ ràng hơn trách nhiệm phối hợp giữa Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, theo đó: “Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội là người đứng đầu Văn phòng Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về công tác của Văn phòng Quốc hội. Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực các Uỷ ban của Quốc hội và Trưởng các Ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chịu trách nhiệm trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về công tác của Văn phòng Quốc hội đối với những vấn đề có liên quan.
2.4.3. Đại biểu Quốc hội
Điểm mới nổi bật trong hoạt động của Quốc hội trong giai đoạn này là có các đại biểu hoạt động chuyên trách. Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa X cho đến nay, số lượng đại biểu Quốc hội đã được tăng dần theo từng khóa, thể hiện rõ rệt xu hướng chuyển dần Quốc hội sang cơ chế hoạt động thường xuyên theo chủ trương của Đảng.
Lần đầu tiên vấn đề đại biểu hoạt động chuyên trách được đồng chí Đỗ Mười, nguyên là Tổng Bí thư của Đảng đề cập đến tại Hội nghị Trung ương năm 1991, theo đó “hướng lâu dài là Quốc hội chuyển dần sang hoạt động thường xuyên”. Thể chế hoá quan điểm này, lần đầu tiên Luật Tổ chức Quốc hội 1992 (Điều 37) quy định “đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách và đại biểu làm việc theo chế độ không chuyên trách”. Tuy vậy, do thiếu các biện pháp tổ chức đồng bộ nên qua hai nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX và khóa X, số đại biểu chuyên trách làm việc tại các cơ quan của Quốc hội không nhiều. Trong nhiệm kỳ khoá IX chỉ có 21 đại biểu, chiếm 5,31% trong tổng số 500 đại biểu Quốc hội.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 đã quy định cần phải có ít nhất 25% tổng số đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, coi đó là chỉ tiêu cần phải được thực hiện. Nhờ tổ chức thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, số đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách đã tăng lên đáng kể, có 119 đại biểu hoạt động chuyên trách trong tổng số 498 đại biểu. Tiếp đó, nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII con số này là 145 trên tổng số 493 đại biểu, trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII, số lượng đại biểu chuyên trách là 154 người, chiếm tỷ lệ 30,8%. Không chỉ có đại biểu hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội, mà cho đến nay, ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại các cơ quan của Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội, đồng thời thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan của Quốc hội mà mình là thành viên theo sự phân công của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội, đồng thời thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến việc tổ chức và triển khai các hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội của địa phương.
Để bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2002, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội (Quy chế hoạt động) năm 2002 đã quy định tương đối rõ ràng và cụ thể về đại biểu Quốc hội. Trong số này, các quy định về đại biểu Quốc hội, bao gồm quyền miễn trừ, quyền chất vấn, quyền tham gia giải quyết khiếu nại, quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và các nghĩa vụ: tham gia các kỳ họp, bị bãi miễn khi không hoàn thành nhiệm vụ là giữ nguyên như được quy định trong Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981. Điểm thay đổi lớn nhất là về mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử tri. Tại Điều 12 của Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội ghi rõ: “Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp xúc cử tri theo chương trình tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội. Trong trường hợp không thể tham gia tiếp xúc cử tri thì đại biểu Quốc hội báo cáo với Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội”, và “Đại biểu Quốc hội có thể tiếp xúc cử tri nơi cư trú, nơi làm việc. Đại biểu Quốc hội liên hệ với Uỷ ban MTTQ địa phương nơi cư trú hoặc BCH Công đoàn nơi làm việc để tổ chức cho đại biểu tiếp xúc cử tri”.
Nhằm tạo điều kiện cho các đại biểu hoạt động, điểm mới nữa trong Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội là quy định chi tiết điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội về tài liệu và các dịch vụ thông tin, nghiên cứu, thư viện và internet khi có yêu cầu. Đại biểu Quốc hội là thành viên Hội đồng Dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội còn được cung cấp thông tin về hoạt động của Hội đồng Dân tộc hoặc của Uỷ ban mà mình là thành viên.
Thường trực HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đại biểu Quốc hội được bầu hoặc nơi đại biểu Quốc hội chuyển đến sinh hoạt có trách nhiệm cung cấp các nghị quyết của HĐND, các văn bản quy phạm pháp luật của UBND và các báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương cho đại biểu Quốc hội.
Về Đoàn đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 vẫn giữ quy định Đoàn đại biểu Quốc hội gồm các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương không phải là chủ thể trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội. Đây có thể coi là hình thức tổ chức để triển khai các hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và có các nhiệm vụ như sau:
(a) Tổ chức việc tiếp công dân của đại biểu Quốc hội; tổ chức việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội;
(b) Tổ chức để các đại biểu Quốc hội thảo luận về dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác;
(c) Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân mà đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội đã chuyển đến cơ quan, tổ chức;
(d) Tổ chức để đại biểu Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương;
(đ) Báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Một điểm đổi mới quan trọng nữa là Quy chế hoạt động đã khẳng định rõ vai trò của Trưởng đoàn và Phó Trưởng đoàn Đoàn đại biểu Quốc hội. Cả hai chức danh này đều do Đoàn đại biểu Quốc hội bầu và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Vai trò của Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội là điều hành việc thực hiện nhiệm vụ của Đoàn đại biểu Quốc hội; chủ trì việc tổ chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội và tham gia thực hiện nhiệm vụ của Đoàn đại biểu Quốc hội; chủ trì việc xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch hoạt động của Đoàn; triệu tập và chủ tọa các cuộc họp của Đoàn đại biểu Quốc hội; giữ mối liên hệ với Chủ tịch Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan ở Trung ương; giữ mối liên hệ với đại biểu Quốc hội trong Đoàn, Thường trực HĐND, UBND, Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan ở địa phương; chỉ đạo công tác Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và tổ chức việc thực hiện kinh phí hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội.
Cùng với việc kiện toàn tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội là việc thành lập văn phòng giúp việc của các Đoàn đại biểu Quốc hội. Nhờ có cơ cấu văn phòng giúp việc cho các Đoàn đại biểu Quốc hội nên trên thực tế đã hình thành bộ phận cán bộ, chuyên viên giúp việc chuyên trách cho hoạt động của đại biểu Quốc hội ở địa phương và thông qua đó, tăng cường mối liên hệ và phối hợp công tác giữa các văn phòng phục vụ đoàn đại biểu Quốc hội và giữa các văn phòng này với Văn phòng Quốc hội.
Kể từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, vai trò của Đoàn đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được tăng cường đáng kể. Trên thực tế, trước mỗi kỳ họp Quốc hội, Đoàn đại biểu tổ chức họp Đoàn để trao đổi, đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản sẽ được xem xét tại kỳ họp Quốc hội; bàn những công việc liên quan đến chương trình, nội dung kỳ họp Quốc hội và hoạt động của Đoàn trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội.
(còn nữa)