70 năm Quốc hội Việt Nam (kỳ 1)

04:12, 18/12/2015

LTS: Ngày 6-1-1946 đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lịch sử nước ta khi lần đầu tiên người dân Việt Nam thông qua lá phiếu của mình được quyền trực tiếp lựa chọn, bầu những người có tài, có đức vào Quốc hội để gánh vác công việc nước nhà. Thành công của cuộc Tổng tuyển cử đã đánh dấu sự ra đời của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày nay là Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Kể từ đó đến nay, Quốc hội nước ta đã trải qua 70 năm phát triển mạnh mẽ, gắn liền với lịch sử cách mạng nước nhà. Qua 13 khoá hoạt động, Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Thực hiện sự chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc tổ chức tuyên truyền tại các địa phương về kỷ niệm 70 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam (6-1-1946 - 6-1-2016), nhằm giúp cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu được một cách có hệ thống về quá trình ra đời và phát triển của Quốc hội Việt Nam trong suốt 70 năm qua, từ số này Báo Nam Định cuối tuần lần lượt trích đăng một số nội dung chủ yếu trong cuốn “70 năm Quốc hội Việt Nam”. Sách do Văn phòng Quốc hội ấn hành.

PHẦN THỨ NHẤT

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương,
đường lối của Đảng về Quốc hội

I. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quốc hội

Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII năm 1991, đã khẳng định Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng ở nước ta. Việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Đảng đánh dấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng là nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng về xây dựng Nhà nước kiểu mới nói chung, xây dựng Quốc hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nói riêng có vị trí hết sức quan trọng.

Quang cảnh phiên họp khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá I ngày 2-3-1946. Ảnh: Tư liệu (TTXVN)
Quang cảnh phiên họp khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá I ngày 2-3-1946. Ảnh: Tư liệu (TTXVN)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quốc hội là rất phong phú, sâu sắc về nội dung và đa dạng về hình thức thể hiện. Trong khuôn khổ tài liệu này, chúng tôi xin tập trung giới thiệu những tư tưởng chủ yếu của Người về Quốc hội thông qua một số đoạn trích bài viết, bài phát biểu.

1.1. Về Hiến pháp và pháp quyền

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đại biểu các nước tham gia chiến tranh họp Hội nghị ở Versailles (Pháp), nhân danh nhóm người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm tám điểm, trong đó nội dung điểm bảy và điểm tám như sau:

“7. Thay đổi chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;

8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ”1.

Sau này, khi diễn ca bản yêu sách của nhân dân An Nam thành Việt Nam yêu cầu ca, thì các điểm bảy và điểm tám được thể hiện như sau:

“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền
Tám xin được cử Nghị viên
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ dân”2.

Năm 1926, trong bản yêu sách gửi Hội vạn quốc, một lần nữa Hồ Chí Minh lại đề cập tới vấn đề quyền tự quyết của nhân dân. Trong bản yêu cầu này, Hồ Chí Minh và những người yêu nước khác đã viết:

“Nếu được độc lập ngay thì nước chúng tôi:

3. Xếp đặt một nền Hiến pháp theo những lý tưởng dân quyền”3.

Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày 3-9-1945), Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là: “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”4. Ngày 20-9-1945, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Uỷ ban Dự thảo Hiến pháp gồm 7 vị do Người làm Trưởng ban. Và ngày 9-11-1946 bản Hiến pháp mới đã được Quốc hội thông qua, trong đó quy định rõ các quyền tự do dân chủ của nhân dân dưới một chính thể dân chủ rộng rãi.

Về vấn đề cơ bản của Hiến pháp, Người đã khẳng định:

“... Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp...”5.

1.2. Về quyền lực thuộc về nhân dân

Hồ Chí Minh khẳng định bản chất dân chủ của chế độ ta, Nhà nước ta. Trong một chế độ dân chủ, Nhà nước dân chủ, người dân được đặt ở vị trí cao nhất - dân là chủ, dân làm chủ, còn các cơ quan Nhà nước và cán bộ Nhà nước chỉ là đày tớ, là “công bộc” của nhân dân. Người khẳng định:

“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra…
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”6.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để xác lập nền tảng pháp lý của một Nhà nước kiểu mới theo hướng pháp quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc soạn thảo Hiến pháp dân chủ đầu tiên - Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1946 đã tuân thủ 3 nguyên tắc cơ bản của một Nhà nước dân chủ. Đó là: 1) Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; 2) Bảo đảm các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; 3) Thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Với những nguyên tắc trên đây, Hiến pháp 1946 đã bảo đảm về mặt pháp lý tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân và Hiến pháp là cơ sở pháp lý để tiến hành công việc của đất nước.

Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân còn được thể hiện ở chỗ Hồ Chí Minh kiên quyết khước từ mọi hình thức ưu đãi mang màu sắc quân chủ trong việc kiến tạo ra một lãnh tụ quốc gia. Tháng 12-1945, tại Hà Nội, 118 chủ tịch các UBND và tất cả các giới đại biểu làng xã công bố một bản kiến nghị: “Yêu cầu Cụ Hồ Chí Minh được miễn phải ứng cử trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới vì Cụ đã được toàn dân suy tôn làm Chủ tịch vĩnh viễn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Đáp lại nguyện vọng của nhân dân, Hồ Chí Minh đã trả lời: “Tôi là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nên tôi không vượt khỏi thể lệ của Tổng tuyển cử đã định”7.

1.3. Về bầu cử Quốc hội

Báo Cứu Quốc số 130 ra ngày 31-12-1945 đã đăng bài viết: “Về ý nghĩa tổng tuyển cử” của Bác Hồ. Người đã chỉ rõ quyền bầu cử, ứng cử: “… Trong tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử, không phân chia trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó8.

Một ngày trước khi diễn ra cuộc tổng tuyển cử, chiều 5-1-1946, trước hơn hai vạn đồng bào Thủ đô Hà Nội đang mít-tinh ủng hộ cuộc bầu cử, Bác Hồ đã nói: “Làm việc bây giờ là hi sinh phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ đến lợi chung...”. Hướng về phía cử tri Bác đã căn dặn: “Những ai muốn làm quan cách mạng thì không nên bầu. Ngày mai không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện quyền dân chủ của mình”. Hướng về phía các ứng cử viên Bác nhắn nhủ: “Ngày mai dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng để thay mặt cho mình gánh vác việc nước. Ngày mai người ứng cử thì đông, nhưng số đại biểu được bầu thì ít, tất nhiên có người được cử, có người không được cử, những người trúng cử sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, phải luôn luôn ghi nhớ và thực hành câu: vì lợi nước, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng”...

Năm 1953, trong các bài viết về Thường thức chính trị đăng trên Báo Cứu Quốc, Hồ Chí Minh tiếp tục đề cập tới vấn đề quyền bầu cử của nhân dân. Người viết: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái, trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hoá, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách rất hợp lý để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình9.

Về ý nghĩa của cuộc bầu cử, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà10“Một lá phiếu cũng có sức lực như một viên đạn”. Và “Lựa chọn những đại biểu như vậy là quyền lợi và nghĩa vụ của người cử tri...11. Từ đó, Bác khẳng định: “Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết12.

1.4. Về vai trò, chức năng của Quốc hội

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Quốc hội chỉ có thể phát huy được vai trò của một thiết chế dân chủ khi nó có thực quyền và đại diện thực sự cho lợi ích cho nhân dân, của một nước có độc lập. Do đó, để có được một Quốc hội là cơ quan đại diện cho nhân dân, thì trước hết phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.

Theo Người “... Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương.

... Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Những vấn đề quan trọng nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc đều do Quốc hội quyết định13.

Quan điểm “Quốc hội quyết định những công việc quan trọng nhất của Nhà nước” còn được thể hiện qua các chế định của Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo. Theo bản văn của Hiến pháp này thì tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam (Điều 1). Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Điều 22). Nghị viện có quyền làm luật (Điều 23). Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Nếu Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố (Điều 31). Trong cơ cấu của Nghị viện nhân dân có Ban Thường vụ. Khi Nghị viện nhân dân không họp thì Ban Thường vụ có quyền biểu quyết sắc luật của Chính phủ (Điều 36). Nghị viện có quyền bầu ra Chủ tịch nước (Điều 45), bầu Thủ tướng, phê chuẩn danh sách Bộ trưởng do Thủ tướng trình, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Nội các (Điều 47, Điều 54), Nghị viện có quyền sửa đổi Hiến pháp nhưng phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70). Như vậy, theo Hiến pháp năm 1946, Nghị viện là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, quyết định những công việc quan trọng nhất của Nhà nước nhưng quyền lực của Nghị viện cũng bị kiểm tra lại bởi các thiết chế Nhà nước và bởi nhân dân - chủ thể của quyền lực Nhà nước. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp mẫu mực về cách quy định ngắn gọn, súc tích, văn phong trong sáng và tổ chức khoa học về phân công quyền lực trong bộ máy Nhà nước.

Trong mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan khác trong bộ máy Nhà nước, theo Hồ Chí Minh, Chính phủ, người đứng đầu Nhà nước cũng phải do Quốc hội bầu ra. Đó là lý do vì sao Người rất khẩn trương trong việc chỉ đạo tổ chức cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên để bầu ra Chính phủ chính thức thay cho Chính phủ lâm thời. Và chính Người đã khước từ lời đề nghị của nhân dân về việc để Hồ Chí Minh làm Chủ tịch vĩnh viễn không qua bầu cử. Nghiên cứu một số hoạt động khác của Hồ Chí Minh còn thấy rằng trong tư tưởng của Người, Quốc hội còn là cơ quan thực hiện quyền kiểm soát đối với Chính phủ và người đứng đầu Nhà nước14.

1.5. Về tính đại diện của Quốc hội

Về tính đại diện của Quốc hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh Quốc hội là đại diện cho toàn thể quốc dân Việt Nam và tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết toàn dân. Trong Diễn văn khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (2-3-1946), Người nói:

“… Trong cuộc Toàn quốc đại biểu đại hội này, các đảng phái đều có đại biểu mà đại biểu không đảng phái cũng nhiều, đồng thời phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số cũng đều có đại biểu. Vì thế cho nên các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết lại thành một khối…”15.

“... Quốc hội ta là Quốc hội của toàn dân, được bầu ra theo luật tuyển cử rất dân chủ: tự do, phổ thông, bỏ phiếu kín... Vì vậy, Quốc hội ta là tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết của toàn dân, cho chí khí quật cường của dân tộc, cho quyết tâm độc lập, thống nhất của toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam...”16.

Từ cuối tháng 12-1946, đáp lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, các đại biểu Quốc hội đã cùng nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Sau khi kháng chiến thành công, ngày 20-3-1955, kỳ họp thứ tư của Quốc hội khoá I họp tại Thủ đô Hà Nội. Đọc lời chào mừng trong phiên khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Quốc hội là tiêu biểu ý chí thống nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi, đã góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Pháp, đem lại hoà bình cho đất nước”17.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết trong Quốc hội: “Khoá Quốc hội này là khoá Quốc hội đoàn kết. Ở đây, có đại biểu của tất cả các giai cấp yêu nước, của tất cả các dân tộc anh em, các tôn giáo, các đảng phái, của đồng bào Bắc, Trung, Nam. Tất cả chúng ta đều phải tăng cường đoàn kết... Quốc hội đoàn kết nhất trí, toàn dân đoàn kết nhất trí, thì khó khăn nào chúng ta cũng khắc phục được và thắng lợi nhất định về tay ta...”18.

1.6. Về đại biểu Quốc hội

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình của thế giới từ cách mạng tư sản châu Âu, châu Mỹ đến Cách mạng Tháng Mười Nga. Vì vậy, Người rất hiểu vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng nói chung và vai trò của đại biểu Quốc hội nói riêng. Đại biểu Quốc hội là chủ thể giữ vai trò then chốt nếu không muốn nói là quan trọng nhất trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước của Quốc hội.

Về tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, Người đã nêu rất cô đọng các đặc điểm cần và đủ như sau:

“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà”19; “những người trúng cử sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu cầu hạnh phúc của đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: vì lợi nước, quên lợi nhà, vì lợi chung, quên lợi riêng.

Phải làm sao cho xứng đáng với đồng bào, cho xứng đáng với Tổ quốc”20.

Sau này, trong bài nói chuyện với đồng bào Thủ đô nhân dịp mừng kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá II, Hồ Chí Minh nêu rõ hơn về phẩm chất của người đại biểu Quốc hội, Người nói: “Tất cả đại biểu Quốc hội hứa với đồng bào là được cử vào Quốc hội để làm đại biểu Quốc hội không phải là để làm quan, không phải là để ngồi trên ăn trốc mà là người đầy tớ tuyệt đối trung thành của đồng bào”21.“... Quốc hội phải có những đại biểu thật xứng đáng, những đại biểu một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân và phục vụ chủ nghĩa xã hội”22.

Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại biểu Quốc hội còn phải là người “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ chủ nghĩa xã hội”23.

Các đại biểu Quốc hội được nhân dân trực tiếp bầu ra, cho nên theo Hồ Chí Minh:

“... Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình...”24.

Ngoài ra, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quốc hội còn được thể hiện cụ thể, đầy đủ trong hai bản Hiến pháp (1946 và 1959). Đó là những bản Hiến pháp do Người làm Trưởng Ban dự thảo. Những bản Hiến pháp này chứa đựng tư tưởng của Người về vấn đề xây dựng bộ máy Nhà nước nói chung và về Quốc hội nói riêng.

Đứng trước cơ hội và thách thức to lớn của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay, cần phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, làm cho Quốc hội ngày càng xứng đáng là đại biểu cao nhất cho quyền lực của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất; là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước./.

(còn nữa)

------------------------------------

1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.438.

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.436.

3. Vũ Đình Hòe, nội dung về một Nhà nước của dân, do dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh qua bộ máy hành pháp in trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật - Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý 1993, tr.182.

4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.8.

5. Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ngày 18-12-1959, Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.586, 590-591.

6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, tập 5, tr.698.

7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.116.

8. Dẫn trên, chú thích số 10.

9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 7, tr.219-220.

10. Ý nghĩa Tổng tuyển cử, Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.133.

11. Lời phát biểu tại Đại hội nhân dân Thủ đô chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội ra mắt cử tri, ngày 24-4-1960, Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.130.

12. Dẫn trên, chú thích số 10.

13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996, tập 9, tr.586, 590-591.

14. Vũ Kỳ, Bác Hồ với đêm trước kỳ họp đầu tiên Quốc hội khóa I, Tạp chí Người đại biểu nhân dân số tháng 4-1996.

15. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.190.

16. Lời phát biểu tại Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I, kỳ họp thứ 6 - Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996, tập 8, tr.287-289.

17. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.497.

18. Lời phát biểu tại Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I, kỳ họp thứ 6; Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.287-289.

19. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, tr.133, 145.

20. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, tr.133, 145.

21. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, tr.177.

22. Lời phát biểu tại Đại hội nhân dân Thủ đô chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội ra mắt cử tri, ngày 24-4-1960, Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.130.

23. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, tr.132.

24. Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ngày 18-12-1959, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, tr.586, 590-591.



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Giấy phép số: 136/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 17/3/2022.

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com