Luật Biển Việt Nam

07:08, 01/08/2014

[links()]

(Tiếp theo kỳ trước)

Câu hỏi 29. Hãy cho biết vài nét về yêu sách “đường lưỡi bò” (hay còn gọi là “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”) của Trung Quốc? Một số nhận xét về “đường lưỡi bò” nhìn từ công pháp quốc tế?

Trả lời: Ngày 7-5-2009, cùng với Công hàm gửi Tổng Thư ký LHQ phản đối việc Việt Nam và Malaysia nộp Báo cáo chung về ranh giới ngoài thềm lục địa của mình cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ theo quy định của Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, Trung Quốc đã gửi kèm một bản đồ trên đó thể hiện yêu sách “đường lưỡi bò” của mình trên Biển Đông (Bản đồ kèm theo).

Trong Công hàm viết “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông) và các vùng nước kế cận, và có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất đáy biển ở đó (kèm theo bản đồ). Đây là quan điểm nhất quán của Chính phủ Trung Quốc và đã được biết đến rộng rãi trong cộng đồng quốc tế.

Công hàm ngày 7-5-2009 là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về yêu sách “đường lưỡi bò” và cũng là lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố bản đồ “đường lưỡi bò” với toàn thế giới. Trước đó, mặc dù “đường lưỡi bò” đã được thể hiện nhiều lần trong một số bản đồ lưu hành trong nước, nhưng chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ có một tuyên bố chính thức nào trước cộng đồng quốc tế.

“Đường lưỡi bò”, “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”... là những cách gọi khác nhau mà các học giả trên thế giới dùng để chỉ yêu sách của Trung Quốc, chạy sát bờ biển của các nước có chung Biển Đông, có đoạn chỉ cách bờ biển Việt Nam khoảng 50 đến 100km. Đường này còn chạy sát bãi James Shoal của Malaysia và đảo Natuna của Indonesia, đảo Luzon thuộc quần đảo Philippines và chiếm đến 80% diện tích Biển Đông. “Đường lưỡi bò” ban đầu gồm 11 đoạn. Năm 1953 đường 11 đoạn đã được điều chỉnh thành 9 đoạn, bỏ 2 đoạn trong Vịnh Bắc Bộ.

Theo các học giả Trung Quốc, “đường lưỡi bò” lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ các đảo trong Biển Đông được Vụ Địa lý của Bộ Nội vụ thuộc Chính phủ Trung Hoa Dân quốc xuất bản tháng 2-1948. Một số người cố đẩy thời gian xuất hiện của “đường lưỡi bò” xa hơn nhằm mục đích giải thích có lợi cho Trung Quốc. Họ cho rằng “đường lưỡi bò” do một người tên Hu Jinjie vẽ từ năm 1914 và đến tháng 12-1947 một viên chức của chính quyền Trung Hoa Dân quốc tên là Bai Meichu vẽ lại đường này trong một bản đồ cá nhân để thể hiện cảm xúc của mình khi nghe tin Pháp chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa năm 1933.

Yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc không thể được coi là yêu sách nghiêm túc của một quốc gia đối với một vùng biển rộng lớn vì nó hoàn toàn không có cơ sở lịch sử, pháp lý và thực tiễn, với những lý do sau:

Thứ nhất, Trung Quốc đòi hỏi “quyền chủ quyền và quyền tài phán” đối với “đường lưỡi bò”, có nghĩa là đòi hỏi một vùng biển có quy chế pháp lý tương tự với quy chế của vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa theo Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982. Điều này trái với Công ước (Trung Quốc cũng là thành viên của Công ước từ năm 1996) vì vùng biển mà đường lưỡi bò chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, nằm cách xa bờ biển Trung Quốc hàng nghìn km (chỗ xa nhất). Theo quy định của Công ước, các vùng biển này không thể là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc.

Thứ hai, cho đến trước khi Trung Quốc yêu sách chính thức về đường lưỡi bò (tháng 5-2009), đường này không hề được đề cập, hay được quy định trong các văn bản pháp luật của Trung Quốc như: Tuyên bố về lãnh hải năm 1958, Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1992, Luật về đường cơ sở lãnh hải năm 1996, Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa năm 1998...

Thứ ba, yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, theo quy định của Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, của các quốc gia khác ven Biển Đông như Việt Nam, Philippines, Indonesia, Malaysia, Brunei, cũng đều là thành viên của Công ước.

Thứ tư, thời điểm xuất hiện của “đường lưỡi bò” còn chưa được các tác giả Trung Quốc thống nhất, lúc thì nói là năm 1948, lúc thì nói là năm 1947, có lúc lại nói năm 1914, nguồn gốc đường này chỉ là một dạng xuất bản tư nhân, lúc thì vẽ 11 đoạn, lúc thì vẽ 9 đoạn một cách tùy tiện, không có tọa độ rõ ràng, không thể xác định trên thực tế. Chính phủ Trung Quốc cho đến nay vẫn giữ im lặng về việc giải thích tọa độ chính xác của các đường đứt đoạn trong yêu sách.

Thứ năm, Trung Quốc không chứng minh được là các chính quyền của họ đã thực thi “chủ quyền” trong “đường lưỡi bò” một cách thực sự, liên tục và hòa bình trong lịch sử. Thực tế từ trước đến nay các nước xung quanh Biển Đông vẫn tiến hành thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của mình theo các quy định của Công ước của LHQ về Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, các nước trong và ngoài khu vực vẫn tiến hành các hoạt động tự do hàng không, tự do hàng hải bình thường trong khu vực “đường lưỡi bò” (trong đó có các vùng biển nằm ngoài các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia xung quanh Biển Đông).

Thứ sáu, thực tế tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các đòi hỏi của Philippines, Malaysia, Brunei đối với toàn bộ hoặc một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy không thể nói yêu sách “đường lưỡi bò” trên Biển Đông mà Trung Quốc đòi hỏi đã được các nước khác công nhận.

Bản đồ Trung Quốc đính kèm theo Công hàm gửi LHQ ngày 7-5-2009 (xem hình 1)

Bản đồ Trung Quốc đính kèm theo Công hàm gửi LHQ ngày 7-5-2009
Hình 1 - Bản đồ Trung Quốc đính kèm theo Công hàm gửi LHQ ngày 7-5-2009

Câu hỏi 30. Quan điểm pháp lý về quyền “thụ đắc lãnh thổ” của các bên tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa?

Trả lời: Để bảo vệ cho chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, các bên tranh chấp đã dựa vào những nguyên tắc pháp lý chủ yếu như sau:

- Trung Quốc: Chủ quyền lịch sử.

- Philippines, Malaysia: Chủ quyền do tính kế cận địa lý.

Theo nhận xét của các chuyên gia pháp lý quốc tế thì những nguyên tắc này hoàn toàn không có giá trị để chứng minh và bảo vệ cho những hành động chiếm đóng phi pháp của các bên tranh chấp, đặc biệt là quan điểm “chủ quyền lịch sử” của họ.

Học giả Lý Lệnh Hoa, thuộc Trung tâm Thông tin hải dương Trung Quốc, là một trong những chuyên gia luật biển nổi tiếng của Trung Quốc và quốc tế nhận xét:

“Nói đến quyền lợi ở Nam Hải, chúng ta thường thích nói một câu là: từ xưa đến nay thế này thế nọ, có lúc hứng lên còn thêm vào hai chữ "thiêng liêng”.

Đó chính là cái gọi là chứng cứ lịch sử... Nhưng những chứng cứ đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại... Chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực tế.

Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa? Người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không? Có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta đã không có được điều đó...

Vào thời nhà Thanh (đời Hàm Phong hoặc Đồng Trị), có một chiếc tàu hàng Pháp chở đồng đi qua vùng biển “Tây Sa” thì gặp cướp biển, bị cướp sạch.

Theo quy tắc vận tải hàng hoá trên biển, họ phải đến gặp chính quyền sở tại để trình báo, đề nghị giúp bắt bọn cướp, đồng thời xin chính quyền nơi đó xác nhận làm bằng cứ để khi về báo cáo với chủ hàng và đòi hãng bảo hiểm bồi thường.

Viên thuyền trưởng người Pháp đưa tàu chạy đến cảng gần nhất là Du Lâm ở đảo Hải Nam, trình báo với tri phủ (có lẽ là tri huyện) địa phương.

Viên quan địa phương đó nói với thuyền trưởng Pháp: ‘‘Nơi chúng ta đứng đây có tên là "Thiên Nhai Hải Giác” (chân trời góc biển). Đất của Thiên triều đến đây là hết rồi. Chuyện ông bị cướp ngoài biển biết là ở chỗ nào? Ông bị cướp, chúng tôi không chịu trách nhiệm, không quản được và cũng không muốn quản”.

Thế rồi tống cổ tay thuyền trưởng bị cướp ra khỏi nha môn. Nhưng sự kiện đó cần phải có cái kết, nếu không về Pháp biết ăn nói ra sao? Viên thuyền trưởng đành phải cho tàu chạy vào cảng Hải Phòng.

Quan chức địa phương ở đó rất tốt, xác nhận cho ông ta, lại còn cho tàu ra chạy lòng vòng, coi như đã truy bắt cướp.

Đó là chứng cứ gì? Đó chính là chứng cứ về kiểm soát và quản lý thực tế. Chứng cứ này nói lên: Chính phủ Trung Quốc ngay từ thời triều Thanh đã không thừa nhận “Tây Sa" là lãnh thổ của mình, cũng không đảm trách công tác trị an ở đó.

Còn chính quyền Việt Nam khi đó không những đã cho rằng “Tây Sa” là lãnh thổ của họ, mà còn thực thi công tác giữ gìn trật tự ở đó.

Điều đó chả phải đã chứng minh “Tây Sa” từ xưa đến nay đều thuộc về Việt Nam hay sao? Nếu bạn là đại biểu đàm phán của Trung Quốc, được huấn luyện đầy đủ về luật biển và luật quốc tế, trước những chứng cứ như thế thì phải làm thế nào? Thật là muốn có cỗ máy thời gian để quay trở lại thời đó bóp chết viên tri phủ kia!...”. (1)

Về quyền “thụ đắc lãnh thổ” theo nguyên tắc “kế cận địa lý”: một số quốc gia đã dựa vào sự kế cận về vị trí địa lý để bảo vệ cho yêu sách chủ quyền lãnh thổ của mình, họ thường nói vùng lãnh thổ này ở gần lãnh thổ của họ hoặc nằm trong vùng biển, thềm lục địa của họ, nên “đương nhiên” thuộc chủ quyền của họ. Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lập luận này không được thừa nhận như là một nguyên tắc pháp lý. Bởi vì, trên thế giới có khá nhiều vùng lãnh thổ mặc dù nằm gần với nước này, nhưng vẫn thuộc chủ quyền của nước khác xa hơn.

"Thực tiễn lãnh thổ quốc gia không nhất thiết phải liền kề nhau, ví dụ bang Alaska tách rời các bang khác của Hoa Kỳ. Trong vụ tranh chấp thềm lục địa Biển Bắc giữa Đức với Đan Mạch và Đức với Hà Lan (1969), tính kề cận địa lý không có giá trị mà sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ ra biển mới mang lại danh nghĩa chủ quyền cho quốc gia có thềm lục địa đó. Ý nghĩa của nguyên tắc này cũng góp phần giúp cho việc đánh giá một cách khách quan, công bằng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời vạch trần những luận điểm mơ hồ mang tính áp đặt trong yêu sách của Trung Quốc và các nước khác đối với Hoàng Sa và Trường Sa và Trường Sa của Việt Nam”. (2)

Bản đồ Malaysia phát hành năm 1979 (xem hình 2)
 

Bản đồ MALAYSIA phát hành năm 1979
Hình 2 - Bản đồ MALAYSIA phát hành năm 1979

(1) Nguồn: Báo Tiền Phong.
(2) Nguồn: PGS.TS. Nguyễn Bá Diến viết trên trang: ww.nghiencuubiendong.vn

(còn nữa)



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Giấy phép số: 136/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 17/3/2022.

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com