[links()]
(Tiếp theo kỳ trước)
Câu hỏi 5. Luật Biển Việt Nam: Lịch sử hình thành và phát triển?
Trả lời: Căn cứ vào lịch sử quản lý biển của Nhà nước Việt Nam, có thể chia ra các thời kỳ như sau:
- Thời kỳ trước năm 1884: Các Nhà nước phong kiến Việt Nam đã quan tâm đến việc khai thác và quản lý biển: chủ yếu là tổ chức khai thác các nguồn lợi từ biển như mở cửa thông thương với các nước khác: Vân Đồn (thế kỷ XI-XV), Hội An (thế kỷ XVII-XVIII). Sự phát triển thương mại thông qua đường biển đòi hỏi phải triển khai các hoạt động tương ứng nhằm quản lý biển và chống nạn cướp biển trên các vùng biển tiếp giáp với đất liền và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Thời kỳ thuộc Pháp (1884-1954): Ngay sau khi thiết lập chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ, chế độ bảo hộ tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ, Pháp đã chú trọng tới việc áp dụng các luật lệ về biển của “mẫu quốc”: Nghị định ban hành ngày 9-12-1926 quy định áp dụng Luật ban hành ngày 1-3-1888 cấm người nước ngoài đánh cá trong lãnh hải rộng 3 hải lý cho các thuộc địa của Pháp. Ngày 22-8-1936, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp ký ban hành nghị định quy định vùng đánh cá Đông Dương là 20km tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất. Đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Pháp đã nhân danh Nhà nước Việt Nam tổ chức bảo vệ, quản lý, như: đồn trú, tuần tra, thành lập đơn vị hành chính, xây trạm khí tượng, đài vô tuyến điện, trạm đèn biển...
- Thời kỳ 1954-1976: Việt Nam Cộng hòa (VNCH) với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ, là thành viên của hơn 30 tổ chức quốc tế, đã có mặt tại Hội nghị của LHQ về Luật Biển lần thứ nhất tại Giơ-ne-vơ năm 1958. Bằng Tuyên bố ngày 27-4-1965, VNCH đã chính thức thiết lập chiều rộng lãnh hải rộng 3 hải lý. Ngày 1-4-1972, VNCH tuyên bố vùng đánh cá đặc quyền rộng 50 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Năm 1967, Tổng thống VNCH đã tuyên bố về thẩm quyền riêng biệt và quyền kiểm soát trực tiếp trên thềm lục địa tiếp giáp với lãnh hải. Năm 1970, VNCH thông qua Luật Dầu khí. Ngày 9-6-1971 công bố sơ đồ phân chia 33 lô dầu khí trên thềm lục địa theo quan điểm đơn phương của mình. Trong thời gian này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) chưa đưa ra yêu sách và chưa công bố một văn bản quy phạm pháp luật nào về biển, ngoại trừ đã ký một số hiệp định nghề cá trong vịnh Bắc Bộ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) vào các năm 1957, 1960 và 1963.
- Thời kỳ sau năm 1976: Sau khi chính quyền VNCH sụp đổ vào năm 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN) trở thành người đại diện chính thức của nhân dân miền Nam Việt Nam. Vì vậy tại phiên họp ngày 7-5-1975, ủy ban kiểm tra tư cách thành viên tham gia Hội nghị của LHQ về Luật Biển lần thứ ba đã tuyên bố công nhận quyền đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN. Sau khi thống nhất đất nước, quyền đại diện tham gia hội nghị này là Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị đã ủng hộ việc xác lập lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền về kinh tế 200 hải lý theo như tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12-5-1977. Việt Nam đã trở thành nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á thiết lập vùng đặc quyền về kinh tế 200 hải lý. Về thềm lục địa, Việt Nam khẳng định quan điểm dựa theo nguyên tắc kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển ra cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Việt Nam cũng tham gia vào nhóm ủng hộ nguyên tắc công bằng áp dụng trong phân định các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các quốc gia ven biển đối diện hoặc kế cận.
Ngày 12-11-1982, Chính phủ Việt Nam ra Tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Theo đó, đường cơ sở của Việt Nam là hệ thống đường cơ sở thẳng gồm 11 đoạn đi từ điểm 0 nằm trên đường thẳng nối liền đảo Thổ Chu và đảo Poulo Wai (Căm-pu-chia) qua các điểm Al-All nối liền các đảo chạy dọc theo bờ biển Việt Nam trừ phần trong vịnh Bắc Bộ. Tuyên bố cũng nêu rõ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể trong một văn bản tiếp theo phù hợp với 5 điểm của bản Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ Việt Nam với nội dung các đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Ngày 23-6-1994, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam) đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, nước CHXHCN Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”. Quốc hội khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng ĐQKT và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời cũng tuyên bố rõ lập trường của Nhà nước ta là giải quyết hòa bình các bất đồng liên quan đến Biển Đông trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven Biển Đông đối với vùng ĐQKT và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Ngày 21-6-2012, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam. Luật này gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013. Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được khẳng định từ điều 1 của Luật Biển Việt Nam. Bộ luật này được soạn phù hợp với Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.
Câu hỏi 6. Mối quan hệ giữa Luật Biển quốc tế và Luật Biển Việt Nam?
Trả lời: Luật Biển Việt Nam được ban hành là sự kiện pháp lý rất cần thiết và quan trọng của quy trình xây dựng luật pháp của Nhà nước Việt Nam trong mối liên quan với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Có 3 lý do để lý giải về sự kiện này, đồng thời cũng cho thấy mối quan hệ giữa Luật Biển Việt Nam và Luật Biển quốc tế:
(1). Sau khi ký Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, năm 1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn và đã chính thức trở thành thành viên của Công ước. Việc nhanh chóng nội luật hóa, biến các quy định của Công ước thành quy định của nội luật là yêu cầu tất yếu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải có nghĩa vụ thực hiện. Tất nhiên, mọi quy định của Luật Biển Việt Nam không được trái với những quy định của Luật Biển quốc tế mà chỉ được phép cụ thể hóa các chế định, quy định của Luật Biển quốc tế.
(2). Trước khi Hội nghị Luật Biển của LHQ lần thứ ba thông qua Công ước, để đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động trên biển Việt Nam đã có những văn bản quy phạm pháp luật về biển, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, chưa thích hợp để xử lý mối quan hệ ngày càng phát triển, các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên biển, đặc biệt trong tình hình tranh chấp phức tạp thì các văn bản đó chưa đáp ứng được. Do vậy không thể không có Luật Biển quốc gia để đáp ứng tất cả đòi hỏi đó và hơn nữa, điều đó cũng thể hiện trách nhiệm và tính nghiêm túc của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của Công ước.
(3). Xu hướng thế giới hiện nay là hướng ra biển và đại dương. Trên thực tế việc khai thác nguồn lợi đại dương, từ giao thông hàng hải, tài nguyên sinh vật và không sinh vật, khai thác dầu khí càng ngày càng phát triển, đưa đến lợi ích rất lớn với quốc gia, đặc biệt là đối với Việt Nam, một quốc gia ven biển có bờ biển dài, vùng biển rộng. Sự nghiệp phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trong tình hình hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải vươn ra biển để khai thác và bảo vệ, quản lý biển là đòi hỏi tất yếu. Nếu không kịp thời có luật điều chỉnh ngay những hoạt động đó phù hợp luật pháp quốc tế, phù hợp quan hệ chính trị ngoại giao trong khu vực và các nước thì dễ dẫn tới xung đột, mà nguy cơ xung đột không chỉ ảnh hưởng tới khu vực và thế giới, mà chính là lợi ích của đất nước và người dân.
(còn nữa)