(Bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn Tuấn,
Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh tại kỳ họp)
- Kính thưa Chủ toạ kỳ họp;
- Thưa các vị đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu HĐND tỉnh và các vị đại biểu tham dự kỳ họp;
- Thưa toàn thể nhân dân.
Thay mặt UBND tỉnh, tôi cảm ơn các vị đại biểu HĐND tỉnh đã cơ bản đồng thuận với những báo cáo của UBND tỉnh trước kỳ họp thứ 7 khoá XVII; đồng thời đánh giá, ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng của chính quyền các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm 2013.
Tiếp thu những ý kiến xác đáng của cử tri, của đại biểu HĐND tỉnh, UBND và Chủ tịch UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố thực hiện nghiêm túc trong việc trả lời chất vấn, thực hiện khắc phục yếu kém từ kỳ họp lần thứ 6 đến nay. Nhìn chung những cố gắng và tinh thần cầu thị của lãnh đạo các cấp, các ngành là tích cực, góp phần làm cho tình hình của tỉnh tốt hơn, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của tỉnh ngày càng vững chắc, tạo điều kiện tập trung mọi nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội cả về chiều rộng và chiều sâu, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ổn định và có bước nâng cao.
Tuy nhiên còn một số tồn tại chậm được khắc phục (như trong báo cáo đã đề cập) chưa đáp ứng được yêu cầu của một số đại biểu HĐND và cử tri toàn tỉnh.
Sau đây tôi xin làm rõ những cố gắng, kết quả nổi bật trong năm 2013 và 3 năm 2011-2013:
Phần I: Đánh giá tình hình năm 2013 và 3 năm 2011-2013; Mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2014
I. NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT NĂM 2013
1. Hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội:
Năm 2013, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng trong điều kiện khó khăn hơn năm 2012, kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, thị trường thu hẹp; thời tiết khí hậu, dịch bệnh diễn biến phức tạp, trong 15 cơn bão ảnh hưởng tới nước ta thì có 5 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh ta gây nhiều thiệt hại nặng nề. Nhưng có sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo linh hoạt, quyết liệt của chính quyền các cấp, sự giám sát của HĐND, sự phối hợp của MTTQ và hoạt động tích cực của các sở, ngành, đoàn thể, tinh thần lao động sáng tạo của toàn dân và của doanh nghiệp, chúng ta giành thắng lợi quan trọng đáng khích lệ: Hầu hết các chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, nhiều chỉ tiêu cao hơn mức bình quân của cả nước.
+ Tốc độ tăng tổng sản phẩm (GDP): 12%
+ Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng: 39,8%; dịch vụ: 35%; nông - lâm - thuỷ sản: 25,2%.
+ Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp: 21,5%.
+ Tốc độ tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội: 16%.
+ Tổng trị giá hàng xuất khẩu năm 2013: 413,5 triệu USD.
+ Thu ngân sách trên địa bàn năm 2013: phấn đấu đạt 2.170 tỷ đồng.
+ Giá trị sản xuất trên 1ha đất canh tác ước đạt trên 95 triệu đồng.
+ Tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 còn: 5,77%.
2. Đảm bảo an sinh xã hội:
+ Thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách cho người có công, trong năm đã giải quyết cho 64.991 lượt người có công được hưởng các quyền lợi ưu đãi theo quy định.
+ Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh đã cho 31.192 hộ nghèo, hộ cận nghèo vay vốn với dư nợ 539 tỷ đồng, cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn với dư nợ 1.084 tỷ đồng, cho hộ vay vốn làm nước sạch và VSMT nông thôn với dư nợ 316 tỷ đồng, xây mới 135 nhà cho các hộ chính sách và người nghèo.
+ Tổng số lao động được giải quyết việc làm mới ước 30.500 lượt người, đạt 100% kế hoạch; trong đó 1.944 người đi xuất khẩu lao động, đạt 97,2% kế hoạch. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn ước đạt 5.800 người, tăng 5% so năm 2012. Tỷ lệ hộ nghèo (chuẩn mới) giảm còn 5,77% (KH 5,95%).
3. Văn hoá, xã hội được duy trì và có bước phát triển mới:
+ Giáo dục - Đào tạo: Tiếp tục giữ vị trí là một trong những tỉnh đứng đầu toàn quốc về phong trào và chất lượng giáo dục; hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi. Đạt thành tích xuất sắc trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2012-2013, đứng thứ 3 toàn quốc về số giải (77 giải) và đứng thứ nhất toàn quốc về tỷ lệ thí sinh đạt giải 87,5% (77 học sinh đạt giải/88 thí sinh dự thi).
+ Văn hoá - Thể thao: Đón nhận 2 Bằng chứng nhận Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia đối với hai di sản là “Nghi lễ Chầu văn của người Việt” và “Lễ hội Phủ Dầy”. Đồng thời đang chuẩn bị hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận “Nghi lễ Chầu văn của người Việt” là Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Tập trung các nguồn lực cho đào tạo, tập huấn vận động viên, xây dựng cơ sở vật chất hàng nghìn tỷ đồng phục vụ Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VII tại Nam Định và xây dựng thành phố trung tâm vùng về TDTT.
+ Y tế: Hiện nay Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh, Bệnh viện Phụ sản là bệnh viện vệ sinh của Bệnh viện Bạch Mai, Việt Đức, Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Các bệnh viện này đã nhận chuyển giao và tự điều trị được nhiều bệnh hiểm nghèo trước đây nhân dân phải lên các bệnh viện Trung ương, giảm khó khăn về chi phí đi lại, điều trị cho nhân dân, từng bước có chuyển biến tích cực về y đức.
4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo:
Tăng cường giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý, tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan Trung ương, kiên trì các biện pháp tuyên truyền thuyết phục, tích cực tiếp xúc đối thoại công khai với nhân dân để lắng nghe, chỉ đạo quyết liệt, có lý, có tình, giải quyết tận gốc ngay từ cơ sở khi phát sinh vụ việc, hạn chế tối đa khiếu kiện vượt cấp, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Các địa phương, đơn vị trong tỉnh đã tiếp 2.904 lượt người đến khiếu nại, đề nghị (giảm 14,1%); trong đó có 88 lượt đoàn đông người (giảm 12%). Tiếp nhận và xử lý 2.594 đơn thư (tăng 11,4%). Đã và đang giải quyết dứt điểm 12 vụ việc khiếu nại đã thụ lý trước ngày 31-7-2013 thuộc thẩm quyền UBND tỉnh. Đã thông báo chấm dứt thụ lý, giải quyết 9 vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp kéo dài theo Kế hoạch 1130/KH-TTCP của Thanh tra Chính phủ.
5. Chủ động với tinh thần trách nhiệm cao của cả hệ thống chính trị trước tính mạng và tài sản của nhân dân trước sự đe dọa tàn phá của bão, tập trung lực lượng sơ tán một số lượng người lớn chưa từng có trong chiến tranh phá hoại và phòng chống các cơn bão trước đây. Riêng cơn bão số 14 đã sơ tán hơn 50 nghìn hộ, hơn 250 nghìn người dân vào nơi tránh bão an toàn. Tỉnh đã kịp thời ban hành các cơ chế hỗ trợ cây vụ đông để bù vào thiệt hại của vụ mùa 2013 do thiên tai gây ra với số tiền hơn 10 tỷ đồng. Song, lúa vụ mùa được giá nên nông dân cũng đỡ khó khăn và thu nhập trên 1ha canh tác vẫn cao hơn năm 2012.
II. NHỮNG THÀNH TỰU QUAN TRỌNG TRONG 3 NĂM 2011-2013
Nhìn lại 3 năm 2011-2013, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, các Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh uỷ, các Nghị quyết của HĐND tỉnh và Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà trong điều kiện suy thoái kinh tế năm sau nặng nề hơn năm trước; nhưng cả hệ thống chính trị đã vào cuộc dưới sự lãnh đạo của BCH Đảng tỉnh; tập trung mọi nguồn lực vào 5 đột phá lớn với tổng vốn đầu tư phát triển xã hội 54.930 tỷ đồng, tăng 46,8%; trong đó, ngân sách và có nguồn gốc từ ngân sách, vốn của doanh nghiệp và nhân dân đóng góp xây dựng NTM 22.373 tỷ đồng, tăng 53,2% so với giai đoạn 2006-2010.
1. Xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội: Tập trung cao cho các tuyến đường huyết mạch với tổng số vốn 8.209 tỷ đồng. Đã khánh thành Quốc lộ 21, tỉnh lộ 490C, đường BOT. Từ tháng 12-2013 đến tháng 1-2014 sẽ khánh thành thông xe đường bộ mới Nam Định - Phủ Lý, Quốc lộ 37B đoạn Gôi - Liễu Đề, đường 57, đường 489. Như vậy toàn bộ các tuyến đường quốc lộ và tỉnh lộ đã được cải tạo, nâng cấp kết nối với hệ thống đường quốc gia, cải thiện lớn môi trường đầu tư, mở ra một thời kỳ mới về thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững cho tỉnh nhà. Nét mới rất phấn khởi trong quá trình giải phóng mặt bằng xây dựng các tuyến đường huyết mạch là: chúng ta đã nhận được sự ủng hộ to lớn của nhân dân các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Hải Hậu, Giao Thuỷ nơi có các tuyến đường đi qua tích cực góp đất, hiến đất tới 357.180m2 đất, tương đương 500 tỷ đồng, cùng với Nhà nước đẩy nhanh tiến độ các tuyến đường.
Ngoài ra chúng ta cũng đã đầu tư cho văn hoá, xã hội và thể thao 1.441 tỷ đồng, cho giáo dục - đào tạo 485 tỷ đồng, cho y tế 360 tỷ đồng, cho hệ thống đê kè, thuỷ lợi 2.422 tỷ đồng và đầu tư cải tạo nâng cấp hệ thống điện 1.500 tỷ đồng.
2. Xây dựng thành phố trung tâm vùng; nhiệm vụ bao trùm là quy hoạch, chỉnh trang đô thị, xử lý thoát nước, cải tạo nâng cấp hạ tầng giao thông và xây dựng các tuyến phố văn minh đô thị, giữ gìn an ninh trật tự với tổng kinh phí 1.463 tỷ đồng.
Chúng ta tự hào Thành phố Nam Định của chúng ta có bề dày lịch sử và nếp sống đô thị sớm, là 1 trong 15 thành phố lớn của cả nước, các tiêu chí: Sáng, xanh, sạch, cấp nước, thoát nước đứng đầu cả nước.
3. Xây dựng NTM với khâu đột phá là quy hoạch và dồn điền, đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng, vận động nhân dân góp đất, hiến đất làm đường giao thông đồng ruộng và thuỷ lợi nội đồng được 2.414ha đất (tương đương hơn 4.000 tỷ đồng) đắp được 3.519km đường nội đồng, đã cứng hoá hơn 1.071km. Đến nay có 79,3% số xã hoàn thành và 92% số thôn đội hoàn thành dồn điền, đổi thửa. Xây dựng được 150 cánh đồng mẫu lớn, cơ bản cơ giới hoá khâu làm đất và khâu thu hoạch, từng bước thay đổi phương thức sản xuất trong nông nghiệp, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, giảm sức lao động nặng nhọc và nâng cao thu nhập cho nông dân. Đã có một số Cty liên kết với các hợp tác xã đảm bảo cung ứng vật tư, giống và thu mua sản phẩm cho nông dân.
- Kết quả tổng hợp của Chương trình xây dựng NTM trong 3 năm: Trong 96 xã xây dựng NTM (gấp 4 lần chỉ tiêu Trung ương giao), có 3 xã đạt 18 tiêu chí, 9 xã đạt 17 tiêu chí, 15 xã đạt 16 tiêu chí, 58 xã đạt từ 11-15 tiêu chí, 11 xã đạt 9-10 tiêu chí, tăng bình quân 7 tiêu chí/xã.
- Tổng kinh phí huy động từ các nguồn vốn cho xây dựng NTM: 6.364.314 triệu đồng, trong đó:
+ Ngân sách các cấp hỗ trợ 1.784.481 triệu đồng bằng 28%.
+ Vốn tín dụng 1.643.000 triệu đồng bằng 25,8%.
+ Vốn doanh nghiệp 1.260.600 triệu đồng bằng 19,8%.
+ Nhân dân đóng góp (không tính đất): 1.063.530 triệu đồng bằng 16,7%.
- Giữ vững tốc độ tăng trưởng ngành Nông nghiệp làm nền tảng ổn định cho phát triển toàn diện bền vững.
Từ những kết quả to lớn trên chúng ta vui mừng được Ban Chỉ đạo Trung ương về xây dựng NTM đánh giá Nam Định là 1 trong 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về xây dựng NTM.
4. Đào tạo nguồn nhân lực: Chúng ta đã tập trung xây dựng và ban hành quy hoạch, chương trình đào tạo nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt quan tâm tới xây dựng, cải tạo cơ sở vật chất, đổi mới phương pháp dạy và học theo tiến trình cải cách giáo dục trong các trường phổ thông và các trường đại học, cao đẳng, lựa chọn các chương trình đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu của doanh nghiệp, làng nghề và xã hội. Chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, từng bước chuyển một bộ phận lao động, sản xuất nông nghiệp sang các ngành nghề thủ công, thương mại dịch vụ và các nghề khác nhằm tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân theo các tiêu chí NTM. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nhất là cấp xã, phường về kiến thức quản lý Nhà nước và các chuyên ngành theo chức danh công chức xã, theo yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, nâng cao nhận thức và trách nhiệm, kỹ năng quản lý chấp hành pháp luật, cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực thi công vụ; trong 3 năm 2011-2013:
- Đã mở được 697 lớp đào tạo cho 21.550 lao động nông thôn, 85% có việc làm.
- Đã mở được 194 lớp đào tạo cán bộ cơ sở cho 17.788 người.
5. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cải cách hành chính:
UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh tập trung chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ các khâu, nhưng đặc biệt quan tâm thường xuyên đến cải cách thủ tục hành chính với mục tiêu quyết tâm loại bỏ những phiền hà, sách nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức các cấp đối với quá trình giải quyết công việc phục vụ nhân dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Coi đây là khâu quan trọng cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ những bức xúc của nhân dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Đồng thời nâng cao chất lượng cơ chế một cửa và một cửa liên thông. Thực hiện công khai thủ tục hành chính, các cơ chế chính sách lên Cổng thông tin điện tử của UBND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh và các sở, ngành của tỉnh. Hiện nay tất cả các sở, ngành và một số huyện, thành phố đã ban hành, công khai bộ thủ tục hành chính. Năm 2012, chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công của tỉnh (PAPI) đứng thứ 4 toàn quốc.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại yếu kém ở một số khâu, một số cơ quan làm cho người dân và doanh nghiệp chưa hài lòng. Vấn đề này với sự ủng hộ của toàn hệ thống chính trị và sự góp ý của nhân dân, chúng ta phải quyết tâm và cố gắng nhiều hơn nữa để xây dựng một nền hành chính công minh bạch phục vụ nhân dân và doanh nghiệp.
Với ý chí quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị bằng 5 đột phá lớn, 3 năm qua chúng ta đã có tư duy phát triển mới, đó là: lựa chọn mục tiêu đột phá; tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, tạo sự đồng thuận cả hệ thống chính trị và nhân dân; hành động quyết liệt; đầu tư tập trung; đồng hành cùng nhà đầu tư; nên đã giành được những thành tựu hết sức quan trọng: Tốc độ tăng GDP bình quân 12%, quy mô nền kinh tế tăng 36,7% (so với năm 2010) làm thay đổi diện mạo thành phố và nông thôn, vị thế của tỉnh ngày càng nâng cao.
- Có 4 chỉ tiêu đạt mục tiêu Đại hội tỉnh lần thứ XVIII: Cơ cấu kinh tế; tốc độ tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội; tổng trị giá hàng xuất khẩu; giá trị sản xuất trên 1ha đất canh tác.
- Các chỉ tiêu khác tiệm cận các chỉ tiêu của Đại hội tỉnh lần thứ XVIII.
Đề nghị HĐND tỉnh ghi nhận và nhiệt liệt biểu dương nhân dân và cán bộ các xã, phường, thị trấn đã có nhiều đóng góp tiền, đất, ngày công xây dựng NTM, xây dựng thành phố trung tâm vùng và làm đường giao thông để có diện mạo và vị thế của tỉnh như ngày nay.
III. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2014
1- Mục tiêu: Huy động và tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tinh thần lao động sáng tạo của nhân dân, của cộng đồng các doanh nghiệp phấn đấu:
- Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 12,3-12,5%.
- GDP bình quân đầu người đạt 28-30 triệu đồng.
- Giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt 420-430 triệu USD.
- Thu ngân sách trên địa bàn 2.170-2.200 tỷ đồng.
- Tỷ lệ hộ nghèo còn 4,5-4,0% theo chuẩn hiện hành.
…
2- Một số nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn, trọng tâm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2014.
Nhiệm vụ giải pháp thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng năm 2014, UBND tỉnh đã báo cáo HĐND tỉnh, tôi nhấn mạnh một số nhóm nhiệm vụ giải pháp lớn trọng tâm sau đây:
2.1. Tiếp tục thực hiện 5 đột phá lớn bằng các nguồn vốn và sự tham gia tích cực của nhân dân. Lựa chọn các dự án, những yêu cầu cấp bách có tính chi phối lớn đến các lĩnh vực, thúc đẩy phát triển của các địa phương và toàn tỉnh, tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ngành, thực hành tiết kiệm các khoản chi chưa thật cần thiết để bố trí vốn tập trung hoàn thành công trình trong thời gian ngắn phát huy hiệu quả vốn đầu tư. Quá trình thực hiện phải dân chủ, công khai, đảm bảo nguyên tắc theo phân cấp, xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành. Phát huy cao nhất sự chủ động sáng tạo của các địa phương. Tích cực vận động nhân dân góp đất, hiến đất làm đường giao thông, thuỷ lợi và các công trình phúc lợi khác. Chuẩn bị mặt bằng để triển khai xây dựng cầu Thịnh Long khi được Chính phủ thông báo vốn; tiếp tục nâng cấp các đoạn còn lại của đường 488; phối hợp với Bộ GTVT đẩy nhanh tiến độ dự án nạo vét chỉnh trị cửa Lạch Giang, khơi thông luồng lạch sông Ninh Cơ đến sông Hồng, các dự án đê kè, thuỷ lợi phòng chống lụt bão và một số dự án khác. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ trong công tác quản lý Nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản và hiệu quả vốn đầu tư.
Kiên trì mục tiêu xây dựng NTM với vai trò chủ thể là nông dân và phương châm: Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ. Phấn đấu năm 2014 có trên 60% số xã cơ bản hoàn thành xây dựng NTM, các xã chưa xây dựng NTM hoàn thành xây dựng đề án xây dựng NTM. Từ năm 2015 tỉnh hỗ trợ những xã có đề án được duyệt. Ưu tiên xây dựng hạ tầng phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch có hiệu quả. Chuẩn bị sơ kết 3 năm xây dựng NTM. Chuyển trọng tâm xây dựng hạ tầng, chỉnh trang Thành phố Nam Định sang phía đông nam sông Đào. Xây dựng Đề án chính quyền điện tử, trước hết đưa công nghệ tin học vào quản lý trong các cơ quan quản lý Nhà nước theo tiêu chuẩn ISO. Nâng cao hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền các cấp, tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành tháo gỡ khó khăn thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
2.2. Tập trung tháo gỡ khó khăn đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, trên cơ sở đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế bằng các biện pháp khoa học và công nghệ. Thực hiện nghiêm sự chỉ đạo của Chính phủ về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Chỉ đạo các ngành thực hiện có hiệu quả chính sách tài khoá, giảm, miễn, hoãn thuế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng có kế hoạch huy động vốn và lộ trình giảm lãi suất cho vay cho các đối tượng khách hàng theo cơ chế linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình tiếp cận các nguồn vốn vay của ngân hàng. Trước hết quan tâm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu... các hộ nông dân trong các làng nghề, nuôi trồng thuỷ sản, chuyển đổi sản xuất trong nông nghiệp... Chủ động phòng chống bão lụt, dịch bệnh và biến đổi khí hậu có hiệu quả. Đảm bảo các chủng loại vật tư có chất lượng, không để tăng giá đột biến, đáp ứng nhu cầu mùa vụ sản xuất nông nghiệp. Nhanh chóng chọn bộ giống cây, giống con phù hợp có hiệu quả kinh tế cao cho các vùng bị nhiễm mặn, vùng cây vụ đông, vùng hay bị hạn và ngập úng, vùng đất lúa năng suất, hiệu quả thấp. Đẩy mạnh sản xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn, trang trại, gia trại tập trung. Đa dạng hoá các hình thức xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Phối hợp với Bộ Công thương và các cơ quan liên quan tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ đàm phán BOT xây dựng Nhà máy nhiệt điện Hải Hậu, với Bộ NN và PTNT tiêu thụ hàng hoá nông sản cho nông dân. Tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ngành, tăng cường tiếp xúc các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước, kêu gọi, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư có dự án lớn, công nghệ cao, tạo nguồn thu ngân sách lớn về đầu tư tại tỉnh. Khuyến khích tạo điều kiện cho các nhà đầu tư dệt may, các Cty chế biến nông sản về nông thôn, thực hiện “ly nông” nhưng không “ly hương”, tránh tranh chấp lao động trong lĩnh vực dệt may. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ công chức và chất lượng hoạt động của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, giao mặt bằng sạch cho nhà đầu tư theo bộ thủ tục hành chính đã được UBND tỉnh công bố công khai. Thực hiện chủ trương các cấp, các ngành đồng hành cùng nhà đầu tư.
2.3. Đảm bảo chính sách an sinh xã hội:
Trong bất cứ khó khăn nào cũng phải đảm bảo kịp thời, đầy đủ chế độ, chính sách cho người có công, giúp đỡ các hộ nghèo. Tiếp tục thực hiện nghiêm quy trình công khai xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ cho thanh niên xung phong, bộ đội tham gia hai cuộc chiến tranh theo đúng hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương. Sở LĐ-TB và XH có kế hoạch rà soát, kiểm tra, thanh tra các cơ sở thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn toàn tỉnh. Đề nghị nhân dân quan tâm giám sát việc thực hiện của cơ sở xóm, đội, thôn, xã, kịp thời phản ánh những vi phạm về Sở LĐ-TB và XH, Bộ CHQS tỉnh, Hội CCB, Hội Cựu thanh niên xung phong tỉnh để xử lý đúng pháp luật.
Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực theo đề án, nhất là nguồn nhân lực cho công nghệ mới, công nghệ cao, cho chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp theo tiêu chí xây dựng NTM. Đảm bảo sau đào tạo người lao động có cơ hội tìm việc làm có thu nhập tốt hơn. Trước hết, cung cấp lao động có tay nghề theo yêu cầu của nhà đầu tư Nhật - Việt cho KCN Mỹ Trung. Bằng các biện pháp quản lý, yêu cầu chủ doanh nghiệp, chủ hộ phải thực hiện nghiêm trách nhiệm xử lý môi trường trong các khu, CCN, làng nghề và khu dân cư, người sử dụng lao động phải thực hiện nghiêm Luật Lao động, các cơ chế, chính sách đối với người lao động như mức lương tối thiểu, BHXH, BHYT, chế độ thai sản, chế độ nhà ở, ăn ca…
Các cấp, các ngành chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể, chu đáo, chuẩn bị đủ cơ cấu các loại hàng hóa phục vụ nhân dân đón Tết Nguyên đán theo tinh thần “Tiết kiệm, vui tươi, lành mạnh, an toàn”. Từ tỉnh đến huyện, xã thành lập các đoàn đến thăm hỏi động viên, tặng quà các đối tượng chính sách, người có công. Kịp thời hỗ trợ người nghèo, không nơi nương tựa… đảm bảo nhà nào, người nào cũng có Tết. Tăng cường quản lý thị trường, chống và xử lý nghiêm hàng giả, hàng kém chất lượng, không rõ xuất xứ, không để sốt giá các mặt hàng thiết yếu và các dịch vụ trước, trong và sau Tết.
2.4. Phát triển văn hóa xã hội, thể dục thể thao:
Duy trì và phát huy thành tích đã đạt được của ngành GD và ĐT, Y tế, VH, TT và DL trong những năm qua; chăm sóc, bồi dưỡng, động viên đoàn học sinh giỏi của tỉnh thi học sinh giỏi quốc gia năm 2014 đạt thành tích cao. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và thầy thuốc về đạo đức nghề nghiệp, có chuyên môn cao trong sự nghiệp trồng người và khám chữa bệnh cho nhân dân. Ứng dụng công nghệ tin học vào dạy và học, thực hiện lộ trình cải cách căn bản và toàn diện GD và ĐT; xây dựng trường chất lượng cao đồng thời với nâng độ đồng đều về chất lượng các trường học phổ thông. Đầu tư thiết bị y tế hiện đại cho dịch vụ công nghệ cao phục vụ khám chữa bệnh hiểm nghèo, chú trọng và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho các đối tượng BHYT, nhanh chóng khắc phục những yếu kém hiện nay. Từng bước tạo điều kiện nơi ăn ở cho giáo viên, trước mắt xây dựng nhà công vụ cho giáo viên THPT ở địa bàn có nhiều nhiều khó khăn, giúp cho các thầy cô giáo yên tâm, yêu nghề hết lòng vì học sinh thân yêu. Phối hợp với Bộ Xây dựng, tranh thủ sự giúp đỡ của Bộ GD và ĐT, chỉ đạo Trường Cao đẳng Xây dựng hoàn thiện hồ sơ nâng cấp lên Trường Đại học Xây dựng Nam Định. Xây dựng cơ chế tổ chức và quản lý lễ hội phù hợp với nghi lễ truyền thống, nâng cao ý thức cộng đồng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chống mọi hình thức biến tướng “buôn thần, bán thánh”, “mê tín dị đoan” làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của một tỉnh giàu truyền thống cách mạng và văn hóa, văn chương khoa bảng. Hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận “Nghi lễ Chầu văn của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư không có tệ nạn xã hội mà nòng cốt là xây dựng gia đình văn hóa và xây dựng tuyến phố văn minh đô thị. Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, tổ chức thành công Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VII tại Nam Định, để lại dấu ấn tốt đẹp của một tỉnh Trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng trong lòng các đại biểu, các vận động viên và Ban tổ chức Đại hội. Đoàn vận động viên của tỉnh phấn đấu đạt thành tích cao nhất, có thứ hạng trong Đại hội. Hoàn thành cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng nội dung chương trình Đài PT-TH tỉnh. Phối hợp với Đài Truyền hình Trung ương xây dựng cột phát sóng truyền hình trung tâm vùng.
2.5. An ninh quốc phòng, đấu tranh phòng chống tham nhũng:
Hoàn thành chỉ tiêu pháp lệnh tuyển chọn và giao quân năm 2014 đúng luật, thực hiện tốt nhiệm vụ thường trực, triển khai thực hiện kế hoạch quốc phòng địa phương. Tăng cường trấn áp tội phạm, nhất là các ổ nhóm có hung khí, tàng trữ buôn bán ma túy, pháo nổ trong dịp Tết Nguyên đán và lễ hội đầu xuân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông trong những ngày lễ, tết và các sự kiện lớn diễn ra trên địa bàn tỉnh. Từng đơn vị, cán bộ công chức phải tự xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức phục vụ nhân dân, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng. Tập trung giải quyết những vi phạm về đất đai, hoàn thành kế hoạch cấp giấy CNQSDĐ cho các hộ dân và cơ quan, tổ chức xã hội. Tổ chức thanh tra và kiểm toán theo kế hoạch, các lĩnh vực: Đất đai, môi trường, xây dựng cơ bản, ngân sách, thực hiện các luật Thuế và các chế độ chính sách người có công, người nghèo… Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải chấp hành nghiêm các kết luận của thanh tra, kiểm toán, đồng thời phải tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân để xử lý, khắc phục kịp thời những thiếu sót, khuyết điểm.
Thực hiện quyết liệt, đồng bộ những giải pháp trên ngay từ những ngày đầu, tháng đầu năm 2014, cũng chính là thực hiện các nghị quyết chuyên đề của BCH Đảng bộ tỉnh và các nghị quyết của HĐND tỉnh, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế - xã hội nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra.
Phần II
Trả lời ý kiến của cử tri:
UBND tỉnh đã nhận được nhiều ý kiến của cử tri trong toàn tỉnh, tôi hoan nghênh những ý kiến của cử tri và phân chia thành những nhóm ý kiến để trả lời làm rõ sau đây:
1. Nhóm ý kiến về hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ cải tạo thuỷ lợi nội đồng, hỗ trợ xây dựng NTM
Cử tri của các huyện đề nghị tỉnh quan tâm, xem xét hỗ trợ kinh phí, giống, kỹ thuật, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, đầu tư nâng cấp hệ thống tưới tiêu, kiên cố hóa kênh mương, mở rộng diện tích cây vụ đông để nâng cao thu nhập cho nông dân; quan tâm hỗ trợ kinh phí cho các địa phương xây dựng NTM, nâng cấp đường giao thông thôn xóm, giao thông nội đồng sau dồn điền, đổi thửa.
- Về hỗ trợ sản xuất nông nghiệp: Hiện nay tỉnh đã có cơ chế hỗ trợ sản xuất vụ đông, đối với cây bí và cây đậu tương, cây khoai tây. Cơ chế hỗ trợ phòng trừ dịch bệnh gia súc gia cầm, cơ chế hỗ trợ mua máy gặt đập liên hoàn. Cơ chế hỗ trợ xây dựng kho lạnh bảo quản giống khoai tây. Hằng năm tỉnh đều dành từ 2-3 tỷ đồng hỗ trợ cho chương trình khuyến nông, khuyến công để xây dựng các mô hình trình diễn giống cây trồng, phân bón mới và hỗ trợ các mô hình cơ giới hóa sản xuất. UBND tỉnh đã giới thiệu Tổng Cty Lương thực miền Bắc thống nhất với huyện Hải Hậu, Giao Thủy, Xuân Trường liên kết với một số xã trong việc cung ứng vật tư và thu mua lúa sau thu hoạch cho nông dân. Nếu làm tốt sẽ mở rộng ra toàn tỉnh, giới thiệu các trung tâm thương mại, siêu thị lớn, các Cty về địa bàn nông thôn mua sản phẩm nông nghiệp. Giúp một số Cty, HTX xây dựng thương hiệu hàng hóa như lúa tám Hải Hậu, nước mắm Thịnh Long, Giao Châu… Thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo Sở NN và PTNT phối hợp với Sở Công thương và các ngành chức năng làm tốt công tác hướng dẫn kỹ thuật; tích cực tìm kiếm thị trường; giới thiệu, quảng bá các mặt hàng nông sản của địa phương, nhất là sản phẩm cây vụ đông để hỗ trợ các hộ nông dân tiêu thụ sản phẩm.
- Về hỗ trợ cải tạo thủy lợi nội đồng: Trong những năm qua tỉnh đã tranh thủ sự quan tâm của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và huy động các nguồn vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng xây dựng, nâng cấp hệ thống kênh tưới tiêu cấp I, cấp II và các cống dưới đê trên địa bàn tỉnh như sông Sò, Cồn Nhất (Giao Thủy), Trà Thượng (Xuân Trường); kênh Múc, Rộc và hệ thống tiêu (Hải Hậu); kênh Đại Tám, Bình Hải I, Bình Hải II (Nghĩa Hưng); kiên cố kênh tưới chính trạm bơm Cổ Đam (Ý Yên); kênh tưới chính Bắc Cốc Thành, kênh C27 và S19 (Vụ Bản); kênh chính Nam (Mỹ Lộc). Tỉnh đã có cơ chế hằng năm dành 50% kinh phí cấp bù thủy lợi phí của các Cty khai thác các công trình thủy lợi để nạo vét, kiên cố hóa kênh cấp II, hỗ trợ 50% số mét dài kênh cấp III trên cánh đồng mẫu lớn. Giao UBND các huyện phối hợp với các Cty xác định công trình làm trước, làm sau phù hợp với điều kiện đối ứng kiên cố hóa kênh cấp III trên cánh đồng mẫu lớn ở mỗi địa phương.
- Về hỗ trợ xây dựng NTM: Thực hiện nghị quyết của HĐND tỉnh, UBND tỉnh đang thực hiện cơ chế hỗ trợ xây dựng NTM từ ngân sách của tỉnh ngoài ngân sách Trung ương hỗ trợ theo Chương trình MTQG với mức 8 tỷ đồng/xã. Năm 2014 tỉnh sẽ bố trí đủ định mức hỗ trợ từ ngân sách tỉnh cho 95 xã xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015 hoàn thành trước 1 năm, đồng thời đã và đang hỗ trợ xây dựng một số hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường nông thôn, xây dựng trạm xá đạt chuẩn quốc gia cho 113 xã xây dựng NTM giai đoạn 2016-2020, từ năm 2015, tiếp tục hỗ trợ cho các xã còn lại theo cơ chế hiện hành.
- Đối với công tác quản lý, kiểm tra, kiểm định chất lượng vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp để người dân yên tâm sản xuất.
Tiếp thu kiến nghị của cử tri tại các kỳ họp trước, trong thời gian qua UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở NN và PTNT phối hợp với Công an tỉnh, Sở Công thương và các huyện, thành phố tổ chức nhiều đợt thanh tra, kiểm tra, lấy mẫu kiểm định chất lượng vật tư nông nghiệp, giới thiệu các Cty vật tư cung ứng có chất lượng cho nông dân, do đó trên địa bàn tỉnh chưa để xảy ra tình trạng giống và vật tư nông nghiệp kém chất lượng, gây thiệt hại lớn cho sản xuất.
Tuy nhiên, ở một số xã, thị trấn vẫn còn tình trạng hộ kinh doanh nhỏ lẻ không đủ điều kiện kinh doanh (không có chứng chỉ hành nghề, giấy phép và đăng ký kinh doanh) nhưng chưa được kiểm tra, xử lý. Cá biệt ở một số nơi còn có tình trạng kinh doanh vật tư kém chất lượng. Nguyên nhân một phần là do UBND các xã, thị trấn chưa thực hiện đầy đủ chức năng quản lý Nhà nước được giao, không chủ động báo cáo, phối hợp với các cơ quan nông nghiệp huyện, quản lý thị trường để xử lý kịp thời, một số hộ dân ham giá rẻ không mua vật tư của các Cty được giới thiệu.
Để khắc phục việc này, UBND tỉnh giao Sở NN và PTNT hướng dẫn các huyện, thành phố, các xã phối hợp với các ngành chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm định chất lượng vật tư nông nghiệp, đồng thời nâng cao trách nhiệm của Chủ tịch UBND các huyện, xã, thị trấn về công tác quản lý Nhà nước đối với thị trường vật tư nông nghiệp. Đề nghị các hộ nông dân thực hiện các biện pháp khuyến nông, lựa chọn đơn vị cung ứng vật tư có trách nhiệm, được giới thiệu để đảm bảo chất lượng vật tư cho sản xuất có hiệu quả.
- Về việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân xây dựng trang trại, gia trại sau dồn điền, đổi thửa; có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với nông dân xây dựng cánh đồng mẫu lớn.
Thực hiện Nghị quyết số 07/NQ-TU ngày 25-7-2011 của BCH Đảng bộ tỉnh khoá XVIII về phát triển kinh tế trang trại, gia trại giai đoạn 2011-2015, ngày 12-8-2011, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 36/KH-UBND giao các huyện, thành phố chỉ đạo các xã, thị trấn quy hoạch phát triển kinh tế trang trại, gia trại gắn với xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp và quy hoạch xây dựng NTM, đồng thời rà soát, phân loại, đánh giá và làm thủ tục cấp, đổi giấy chứng nhận trang trại theo tiêu chí mới (tại Thông tư số 27/TT-BNNPTNT, ngày 13-4-2011 của Bộ NN và PTNT) tạo điều kiện để các chủ trang trại tiếp cận với chính sách tín dụng của Nhà nước quy định tại Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12-4-2010 của Chính phủ. Chỉ đạo Sở NN và PTNT phối hợp với Sở Công thương tăng cường xúc tiến thương mại, giới thiệu các doanh nghiệp liên kết với các xã, thị trấn cung cấp vật tư, tiêu thụ nông sản. Giao cho ngành Điện đảm bảo nguồn điện đến các dự án chuyển đổi và vùng sản xuất trang trại theo quy hoạch, ngành Nông nghiệp và UBND các huyện chỉ đạo Cty khai thác các công trình thuỷ lợi đảm bảo kênh lấy nước vào, ra (kênh chính), UBND các xã dùng một phần kinh phí hỗ trợ xây dựng NTM của tỉnh hỗ trợ cứng hoá đường trục khu trang trại. Đề nghị UBND các huyện chỉ đạo thực hiện các giải pháp trên. Yêu cầu các hộ dân thực hiện nghiêm quy hoạch trong quá trình chuyển đổi và có kế hoạch đầu tư sản xuất trang trại có hiệu quả.
2. Nhóm ý kiến đề nghị tỉnh hỗ trợ xây dựng đường giao thông nông thôn và quản lý vận tải quá khổ, quá tải:
2.1. Hỗ trợ xây dựng giao thông nông thôn:
Các tuyến đường xã, liên xã theo phân cấp là do các xã quản lý, xây dựng, duy tu, sửa chữa. Theo tinh thần, chủ trương và các giải pháp của Nghị quyết số 08/NQ-TU ngày 25-7-2011 của BCH Đảng bộ tỉnh và Kế hoạch số 38/KH-UBND ngày 12-8-2011 của UBND tỉnh về phát triển giao thông nông thôn, đề nghị các xã bố trí kinh phí trong gói hỗ trợ của tỉnh xây dựng NTM và phát động phong trào huy động nhân dân đóng góp, kêu gọi xã hội hoá, theo cơ chế xây dựng NTM để xây dựng, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa các tuyến đường trên. Tuy nhiên những năm trước đây, tỉnh đã chủ động đề nghị Bộ GTVT hỗ trợ bằng nguồn vốn WB cho một số xã quá khó khăn ở tất cả các huyện, thành phố xây dựng đường giao thông nông thôn. Năm 2013, UBND tỉnh đã trình Bộ GTVT bố trí nguồn vốn WB3 và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư đường giao thông nông thôn, song việc hỗ trợ của Trung ương còn phụ thuộc vào chương trình Ngân hàng thế giới, khi được thông báo vốn tỉnh sẽ triển khai.
Theo nghị quyết HĐND tỉnh, từ tháng 1-2014, các xã, phường sẽ tổ chức thu phí đường bộ đối với mô tô, xe máy, nguồn quỹ này sẽ dành cho công tác bảo trì, xây dựng, quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn. Hiện nay, UBND tỉnh đã xây dựng phương án quản lý và sử dụng nguồn kinh phí trên. Theo đó 90% để lại cho xã, huyện, 10% để thực hiện công tác quản lý trên tỉnh và hỗ trợ cho các xã còn nhiều khó khăn. Đề nghị các huyện, thành phố thường xuyên quan tâm chỉ đạo quyết liệt các xã, phường, thị trấn thực hiện việc này.
2.2. Hỗ trợ xây dựng giao thông huyết mạch các huyện và quản lý vận tải quá khổ, quá tải:
- Đối với cải tạo nâng cấp các tuyến đường huyết mạch của các huyện thuộc thẩm quyền của các huyện, nhưng tỉnh sẽ hỗ trợ theo cơ chế hiện hành với nguyên tắc: đường nào hỏng nặng thì hỗ trợ trước và theo khả năng nguồn vốn hằng năm của ngân sách tỉnh.
- Về quản lý các phương tiện quá khổ, quá tải:
Kinh tế phát triển thì nhu cầu vận tải của nhân dân, các doanh nghiệp càng gia tăng, trước sức ép cạnh tranh gay gắt về giá cước vận tải, các doanh nghiệp vận tải (nhất là vận tải hàng hoá đã đầu tư xe có tải trọng lớn để vận chuyển với số lượng lớn, đây là tình trạng chung trong cả nước). Tình trạng xe chở quá khổ, quá tải tham gia lưu thông trên các tuyến đường bộ trên phạm vi cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh Nam Định diễn biến ngày càng phức tạp là nguyên nhân chủ yếu gây hư hỏng hệ thống cầu đường bộ và tiềm ẩn tai nạn giao thông cao.
UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng tập trung kiểm tra thường xuyên, đột xuất trên các tuyến đường QL10, QL21, TL490C. UBND tỉnh đã trang bị cho Sở GTVT 2 cân tải trọng, Tổng cục Đường bộ Việt Nam trang bị cho tỉnh 1 bộ cân kiểm tra tải trọng xe lưu động và nối mạng toàn quốc để phục vụ công tác kiểm soát tải trọng có hiệu quả hơn.
Để xử lý kiên quyết tình trạng xe chở quá tải trên đường bộ trong thời gian tới, UBND tỉnh đã yêu cầu các ngành, các cấp, UBND các huyện, thành phố và các đơn vị liên quan theo chức năng nhiệm vụ phối hợp thực hiện các nội dung:
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật; đặc biệt là các quy định của pháp luật về tải trọng xe, khổ giới hạn của đường bộ.
+ Xây dựng đề án thành lập trạm kiểm tra tải trọng xe lưu động, kiểm soát tải trọng xe trên các tuyến đường bộ trong tỉnh.
+ Xây dựng kế hoạch kiểm tra và xử lý xe vi phạm tải trọng trên các tuyến đường bộ.
+ Tăng cường công tác quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đảm bảo giao thông an toàn, êm thuận, thông suốt.
3. Nhóm ý kiến về tài chính và phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách ở xã:
- Cử tri nhiều huyện đề nghị tỉnh ưu tiên dành toàn bộ tiền cấp quyền sử dụng đất cho các xã, thị trấn sau khi trích 30% xây dựng quỹ phát triển đất để hoàn thành, trả nợ các công trình xây dựng cơ bản.
HĐND tỉnh đã quyết định tỷ lệ điều tiết từ tiền bán đấu giá quyền sử dụng đất thời kỳ ổn định ngân sách 2011-2015 như sau:
- 30% để chi lập quỹ phát triển đất theo Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009 của Chính phủ;
- Ngân sách huyện, thành phố: 20%;
- Ngân sách xã, thị trấn: 50%;
Như vậy, sau khi lập quỹ phát triển đất thì toàn bộ số thu tiền sử dụng đất đã điều tiết cho ngân sách huyện, xã; nếu tăng tỷ lệ điều tiết cho ngân sách cấp xã, thì giảm tỷ lệ điều tiết cho ngân sách cấp huyện. Số thu tiền sử dụng đất phần ngân sách huyện được hưởng để chi cho công tác quy hoạch, đo đạc địa chính, cấp giấy CNQSDĐ và các công việc liên quan đến quản lý đất đai cho các xã không có đất bán đấu giá QSDĐ, các xã khó khăn để kiên cố hoá trường lớp học, trạm y tế, giao thông… phần còn lại của ngân sách huyện ưu tiên bố trí vốn cho công tác giải phóng mặt bằng, vốn đối ứng các dự án trọng điểm của huyện, thành phố.
Như vậy, tỷ lệ điều tiết khoản thu tiền sử dụng đất như quy định hiện nay là đúng quy định, hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của các địa phương trong tỉnh.
- Cử tri các địa phương đề nghị tỉnh quan tâm tăng mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách ở cơ sở.
Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 8-4-2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, theo đó: “Ngân sách Trung ương thực hiện khoán quỹ phụ cấp, bao gồm cả 3% BHYT để chi trả hằng tháng đối với cán bộ hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”.
Mức phụ cấp cán bộ không chuyên trách xã đang hưởng hiện nay theo quyết định của HĐND tỉnh và 3% BHYT hằng tháng đã cao hơn mức khoán kinh phí của Nghị định số 29/2013/NĐ-CP của Chính phủ.
Vì vậy, việc cử tri đề nghị tỉnh quan tâm tăng mức phụ cấp đối với cán bộ nêu trên là chưa phù hợp với mức khoán của Chính phủ. Để có nguồn tăng phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách, các cấp, các ngành, nhất là các xã phải tập trung phát triển sản xuất, kinh doanh tăng thu ngân sách để có nguồn ngân sách thực hiện. Về lâu dài các cơ quan chức năng tiến hành rà soát các đối tượng đang hưởng lương và phụ cấp ở xã, để xác định số lượng hợp lý tránh gánh nặng cho ngân sách và phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính vì: Số đối tượng hưởng lương và các loại phụ cấp quá đông, bình quân 177 người/xã, trong đó đối tượng hưởng phụ cấp là 155 người/xã.
4. Nhóm ý kiến về chính sách người có công:
- Các cử tri đề nghị tỉnh quan tâm đến chế độ, chính sách đối với người bị nhiễm chất độc da cam đảm bảo công bằng, đúng đối tượng.
Ngày 26-5-2006 Chính phủ ban hành Nghị định số 54/2006/NĐ-CP, tất cả các đối tượng đã hưởng chế độ chất độc da cam và các đối tượng được xác nhận mới theo Nghị định số 54/2006 được chuyển sang hưởng chế độ người có công từ nguồn kinh phí Trung ương uỷ quyền do ngành LĐ-TB và XH trực tiếp chi trả.
Ngày 9-4-2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy định các mức trợ cấp theo tỷ lệ mất sức lao động.
Việc chia các mức trợ cấp theo tỷ lệ mất sức lao động có trong hồ sơ của đối tượng theo Nghị định số 31/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định là thể hiện sự công bằng giữa những người đang hưởng chế độ người bị nhiễm chất độc hoá học. Đây là quy định chung của Nhà nước chúng ta phải chấp hành.
Trong quá trình thực hiện nếu phát sinh các bất cập, đề nghị các đối tượng phản ánh về Sở LĐ-TB và XH tập hợp báo cáo UBND tỉnh đề nghị với Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương liên quan xem xét.
- Cử tri nhiều huyện đề nghị sớm chuyển kinh phí hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26-4-2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26-4-2013 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở, ngày 18-7-2013 UBND tỉnh Nam Định có Văn bản số 415/UBND-VP5 chỉ đạo các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố phối hợp để khẩn trương tổng hợp danh sách các hộ người có công đề nghị cải thiện nhà ở trên địa bàn tỉnh, làm cơ sở lập đề án hỗ trợ người có công với cách mạng khó khăn về nhà ở.
Do việc tổng hợp danh sách các hộ người có công đề nghị cải thiện nhà ở trên địa bàn tỉnh của các huyện, thành phố chậm, đến ngày 29-11-2013 các huyện, thành phố mới gửi báo cáo. UBND tỉnh đang chỉ đạo các sở, ngành liên quan thực hiện các quy định, báo cáo Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ KH và ĐT để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Theo thời gian và tiến độ thực hiện được quy định tại Điều 7 Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg thì Trung ương sẽ bố trí vốn từ nguồn ngân sách Trung ương trong năm 2014 để thực hiện hỗ trợ người có công về nhà ở. Sau khi được Chính phủ bố trí vốn, UBND tỉnh sẽ quyết định phân bổ vốn hỗ trợ cho các huyện để hỗ trợ đến từng hộ.
- Về ý kiến đề nghị tỉnh tăng phụ cấp cho đối tượng là vợ, con liệt sĩ, đặc biệt là người từ 60 tuổi trở lên; đề nghị tỉnh sớm giải quyết hồ sơ tồn đọng và những trường hợp bị mất giấy tờ cho các đối tượng nhiễm chất độc da cam; giải quyết chế độ, chính sách cho đối tượng đã tham gia làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Căm-pu-chia.
Thực hiện chế độ, chính sách cho thân nhân liệt sĩ theo quy định tại Điều 20 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP và Nghị định số 101/2013/NĐ-CP ngày 4-9-2013 của Chính phủ, không có mức trợ cấp riêng cho bố, mẹ, vợ hoặc chồng liệt sĩ từ 60 tuổi trở lên. Con liệt sĩ cũng chỉ được hưởng trợ cấp tuất đến năm 18 tuổi, nếu không tiếp tục đi học hoặc không phải bị tàn tật. Đây là quy định của Nhà nước, UBND tỉnh tiếp thu và báo cáo Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương liên quan.
Đối với hồ sơ tồn đọng và những trường hợp mất giấy tờ cho các đối tượng nhiễm chất độc da cam, người làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Căm-pu-chia, tỉnh tiếp tục thực hiện theo hướng dẫn của Bộ LĐ-TB và XH, các bộ, ngành liên quan. UBND các xã, thị trấn phải thực hiện công khai theo quy định. Đề nghị nhân dân ủng hộ phát hiện những trường hợp giả mạo giấy tờ, gửi cơ quan công an, cơ quan LĐ-TB và XH nơi gần nhất để kịp thời xử lý theo pháp luật.
5. Nhóm ý kiến về GD và ĐT:
Cử tri các địa phương tiếp tục đề nghị tỉnh quan tâm hỗ trợ kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang, thiết bị dạy và học trong các nhà trường, đặc biệt các trường mầm non và các trường đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia.
Theo phân cấp việc tăng cường cơ sở vật chất cho các trường mầm non, tiểu học, THCS là nhiệm vụ của UBND các xã, thị trấn, huyện, thành phố. Tuy nhiên, từ năm 2008 đến nay ngoài vốn trái phiếu Chính phủ (273,9 tỷ đồng), tỉnh đã hỗ trợ kinh phí để đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị cho các cơ sở giáo dục. Giai đoạn 2008-2012 tỉnh đã đầu tư xây dựng cơ bản 383,2 tỷ đồng. Đầu tư mua sắm trang thiết bị giai đoạn 2010-2013 là 138,6 tỷ đồng, trong đó thiết bị xây dựng trường chuẩn 11,3 tỷ đồng; thiết bị đầu tư trường mầm non là 91,6 tỷ đồng. Yêu cầu các huyện, thành phố, xã, thị trấn quan tâm huy động các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn xã hội hoá để tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục. UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Sở GD và ĐT sử dụng nguồn vốn từ các chương trình MTQG để mua sắm trang thiết bị cho các trường mầm non, các trường phấn đấu đạt chuẩn quốc gia và trường chất lượng cao.
Những nội dung cụ thể khác của từng xã, từng huyện, UBND tỉnh đã giao các sở, ngành liên quan trả lời bằng văn bản tới các đại biểu.
Kính thưa:
Chủ tọa kỳ họp!
Các vị đại biểu!
Thay mặt UBND tỉnh, một lần nữa tôi xin cảm ơn sự quan tâm của các vị đại biểu HĐND và cử tri toàn tỉnh. Đồng thời, yêu cầu Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, thủ trưởng các sở, ban, ngành và các đơn vị thực hiện nghiêm những nghị quyết kỳ họp thứ 7, HĐND tỉnh khoá XVII đề ra và tiếp thu, tập trung giải quyết những kiến nghị của cử tri liên quan đến địa phương, ngành mình, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm 2014 được HĐND tỉnh thông qua. Tôi cũng đề nghị HĐND tỉnh tăng cường công tác giám sát các cấp, các ngành theo chức năng nhiệm vụ và thẩm quyền, nhất là người đứng đầu để có ý kiến, yêu cầu đích thực. Các cấp, các ngành, người đứng đầu các đơn vị, lĩnh vực nâng cao trách nhiệm thực hiện công vụ có hiệu quả hơn.
Kính chúc các vị đại biểu sức khoẻ, hạnh phúc./.
-------------------
(*) Đầu đề của Báo Nam Định