Lời hịch non sông cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân

03:12, 15/12/2011

Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, đèn điện Hà Nội phụt tắt. Đại bác từ pháo đài Láng gầm lên, bắn những phát đầu tiên. Thủ đô Hà Nội rền vang tiếng súng, mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 20-12-1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời hịch của non sông cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.

Đài Tiếng nói Việt Nam phát
Đài Tiếng nói Việt Nam phát "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1946. Ảnh: Internet

Nội dung Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, gồm năm điểm:

Thứ nhất: Vì sao ta phải kháng chiến?

Thời gian qua, có ý kiến cho rằng: "Nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn một con đường khác, con đường thương lượng hòa bình chẳng hạn, thì đất nước ta tránh được hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, đỡ hao tổn xương máu...".

Đây là ý kiến không tính đến thực tiễn lịch sử. Thực tiễn lịch sử lúc ấy như thế nào? Hãy nghe Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!".

Hãy nhớ lại tình hình lúc ấy: Nước ta vừa giành được độc lập thì nạn ngoại xâm ập tới. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người đã ký với đại diện chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phông-ten-nơ-blô. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam. “Còn nước còn tát”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14-9-1946. Ngày 16-9-1946, Người rời cảng Tu-lông (Pháp) trở về nước. Ngày 16-10, Người gặp Đắc-giăng-li-ơ ở vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23-11-1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí.

Trước tình hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.

Từ ngày 3 đến 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc sống tại nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, ngày 19-12, trên căn gác xép, Người viết Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến.

20 giờ ngày 19-12, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20-12, tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.

Như vậy là mặc dù Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh, nhưng "cây muốn lặng, gió chẳng đừng", đối phương chủ trương gây chiến. Không còn con đường nào khác, Hồ Chí Minh buộc phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược: "Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được". Trong cuộc đấu tranh chống kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đó là quan điểm cơ bản mà Hồ Chí Minh luôn nắm vững trong Khởi nghĩa Tháng Tám 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đó cũng là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Thứ hai: Quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta

Khi đã buộc phải kháng chiến thì Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu.

"Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".

Hồ Chí Minh tuyên bố quyết tâm của nhân dân ta: Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Tiếp theo bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến. Đó là Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, là những khát vọng của một dân tộc đã bị mất nước, bị nô lệ 80 năm. Bởi vậy, chúng ta có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hy sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy.

Thứ ba: Đánh như thế nào?

"Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước".

Trong lời kêu gọi này, Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm "chiến tranh toàn dân" một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói, nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là ở hai chữ toàn dân.

Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò quần chúng trong lịch sử. Người luôn luôn nhắc nhở vai trò của dân: "Dựa vào dân, có dân là có tất cả". Trong lịch sử dân tộc ta, Nguyễn Trãi đã từng nói: "Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân". Tư tưởng "chiến tranh toàn dân" đã được Hồ Chí Minh nêu lên năm 1944 trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân: "Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân và vũ trang toàn dân".

Chỉ thị này được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân. Tiếp theo Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân. "Toàn dân" theo tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn dân tộc.

Thứ tư: Lời kêu gọi dành cho bộ đội, tự vệ, dân quân

"Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước".

Hưởng ứng lời kêu gọi này, quân và dân Hà Nội, mùa đông năm 1946 đã nêu cao tinh thần "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" nay đã trở thành truyền thống của Thủ đô. Xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, bồi dưỡng ý chí chiến đấu, xây dựng và phát huy nhân tố chính trị tinh thần, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở cho mọi mặt xây dựng quân đội là một quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng.

Thứ năm: Khẳng định niềm tin tất thắng

Kết thúc lời kêu gọi, Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắng:

"Dù gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!"

Lời tiên đoán này của Chủ tịch Hồ Chí Minh 9 năm sau đã trở thành sự thật với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Gần ba mươi năm sau, đội quân bách chiến bách thắng của Người đã cắm lá cờ chiến thắng lên nóc Dinh Độc Lập, kết thúc cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, đem lại hòa bình, độc lập, thống nhất cho đất nước./.

Theo: qdnd.vn
 



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Giấy phép số: 136/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 17/3/2022.

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com