[links()]
Nguyên Ủy viên BCH Trung ương Đảng
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao
Tôi tham gia công tác ngoại giao từ năm 1954 đến năm 2006 và được trải nghiệm qua hầu hết các giai đoạn đó. Điều vinh dự lớn đối với tôi là ngành ngoại giao được làm việc dưới sự chỉ đạo dẫn dắt của những ngôi sao ngoại giao Việt Nam như các đồng chí: Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh và sau này là đồng chí Nguyễn Cơ Thạch. Với đồng chí Lê Đức Thọ, điều tôi ấn tượng nhất là sự lãnh đạo của đồng chí ở hai giai đoạn: chống Mỹ cứu nước và Hội nghị Pari; chống chiến tranh ở hai đầu biên giới và giải quyết vấn đề Campuchia. Nhìn lại lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc hàng ngàn năm của nhân dân ta, có 2 cuộc đấu trí trên bàn thương lượng nổi bật nhất để buộc quân xâm lược phải rút quân về nước, từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam. Đó là cuộc nghị đàm giữa đại diện của nghĩa quân Lam Sơn với đại diện của quân xâm lược nhà Minh. Cuộc đấu trí thứ hai lịch sử đó là Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam được tiến hành từ tháng 10 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973. Cuộc đấu trí gần 5 năm này là cuộc thương lượng kéo dài nhất thế giới để chấm dứt một cuộc chiến tranh. Với đường lối chiến lược tài tình của Bác Hồ và của Trung ương Đảng, cuộc tổng tiến công và nổi dậy của nhân dân miền Nam Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc phản công chiến lược mùa Xuân năm 1972 và trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972 đã buộc Mỹ đến Paris để nghị đàm với Việt Nam và ký kết hiệp định kết thúc chiến tranh. Ở đây có các cuộc thương lượng công khai và thương lượng bí mật. Thương lượng công khai để đấu lý và tranh thủ dư luận. Thương lượng bí mật để mặc cả, đây mới là thực chất. Phía Mỹ cử Henry Kít-sing-giơ, một học giả kỳ cựu và là một trong những khối óc (think tank) lớn nhất của nước Mỹ thời bấy giờ dẫn đầu đoàn Mỹ đàm phán bí mật. Phía ta, Bác Hồ đích thân lựa chọn đồng chí Lê Đức Thọ dẫn đầu đoàn đàm phán Việt Nam. Vào thời điểm đó đồng chí Thọ vừa được Đảng cử vào miền Nam đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư Trung ương Cục sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Mới đặt chân trên đất thành đồng Tổ quốc chưa được bao lâu, đồng chí đã phải trở lại Hà Nội gấp.
Sự lựa chọn của Bác Hồ và Bộ Chính trị cử đồng chí Lê Đức Thọ đi Pari là vô cùng chính xác. Đến nay cuộc đàm phán Việt - Mỹ tại Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, cuộc đối đầu trí tuệ Lê Đức Thọ - Kít-sing-giơ đã kết thúc gần 40 năm. Bây giờ có thời gian nhìn lại chúng ta mới thấy hết tài năng tuyệt vời của nhà ngoại giao tài ba Lê Đức Thọ.
Việc ký kết Hiệp định Paris là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Nhưng với nhiệm vụ kết thúc cuộc chiến tranh bằng những văn kiện pháp lý quốc tế thì vai trò thương lượng của người đứng đầu ở bàn đàm phán có vị trí vô cùng quan trọng. Trong suốt 5 năm đàm phán ở Paris, đồng chí được ví như vị tướng ở ngoài biên. Đồng chí thực hiện rất nghiêm túc đường lối chiến lược trong đàm phán mà Bác Hồ đã trực tiếp căn dặn và những chủ trương của Bộ Chính trị đã đề ra. Nhưng phần đóng góp của cá nhân đồng chí thật là to lớn. Đồng chí đã có sự vận dụng sáng tạo, luôn luôn giành thế chủ động tấn công, buộc đối phương phải đi vào đàm phán theo cách của mình. Đã có lúc Kissinger phải thốt lên: “Tôi có thể làm tốt hơn nếu như đối diện trên bàn đàm phán không phải là ông Lê Đức Thọ”, “đàm phán với ông Thọ quả là cân não!”.
Sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27-1-1973, cả thế giới ca ngợi tài trí ngoại giao của đồng chí Lê Đức Thọ. Hình ảnh của đồng chí, danh tiếng của ông tràn ngập trên các trang báo lớn ở Mỹ, phương Tây và các nước khác. Và vì vậy ngay năm 1973, Ủy ban giải thưởng Nobel đã quyết định trao giải Nobel Hòa bình, một giải danh giá nhất thế giới cho đồng chí. Với bản lĩnh và sự nhạy cảm của mình đồng chí đã từ chối nhận giải vì lúc đó Việt Nam chưa thực sự có hòa bình, nhưng thật ra trong thời điểm đó khó có thể nhận giải Nobel Hòa bình cùng đứng liên danh Lê Đức Thọ - Kissinger vì cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ quá khủng khiếp, tang tóc đau thương còn hiển hiện khắp mọi nơi trên đất nước, nạn nhân của chiến tranh phải có thời gian mới nguôi ngoai được.
Nhiều lúc tôi tự hỏi một người như đồng chí Thọ, không qua một trường lớp ngoại giao nào cả, có thể nói ngoại giao là nghề tay trái của đồng chí vì sở trường của đồng chí là chính trị, quân sự và tổ chức. Nhưng tại sao trong ngoại giao đồng chí lại thể hiện tài ba đến như vậy, đến kẻ thù cũng phải kính nể đồng chí. Có lẽ trong con người đồng chí đã hội tụ những tố chất: Đó là nhiệt huyết của con người cách mạng luôn phấn đấu cho độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc. Ở tuổi 20, đồng chí đã tham gia cách mạng, hai lần bị giam cầm trong nhà tù của thực dân Pháp, vào sinh ra tử trong các địa bàn nguy hiểm nhất của cuộc đấu tranh đã hun đúc trong đồng chí ý chí và quyết tâm chiến đấu cho lý tưởng cách mạng dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là sự thông minh bẩm sinh kế thừa truyền thống gia đình và quê hương. Nhưng không có sự thông minh nào mà không có sự rèn luyện tìm tòi, học hỏi, tích lũy và sáng tạo và đồng chí đã tích lũy được kiến thức trong cuộc chiến tranh, trong cuộc sống, trong nhân dân và nhất là với sự tiếp cận với trí tuệ của lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, của nhân loại và biến nó thành nguồn trí tuệ của đồng chí. Đó là một phương pháp khoa học hết sức logic, hết sức hệ thống. Có lẽ đồng chí nắm vững ngũ tri (5 điều biết: biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến hóa). Đồng chí Lê Đức Thọ là nhà lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm nên ông biết mình lắm, biết rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của Việt Nam ở chiến trường và những nơi khác. Biết người, ông tinh tường lắm, ông biết Mỹ đang bế tắc tìm lối ra trong vũng lầy chiến tranh nhưng lại muốn ra trong thế mạnh và bảo toàn cho đồng minh của mình. Ông nắm vững thời thế lúc đó, khi phong trào chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam lan rộng ra toàn thế giới và trong lòng nước Mỹ buộc chính quyền Mỹ phải sớm kết thúc đàm phán với Việt Nam. Đàm phán có lúc rất căng, ông phê phán Mỹ hết sức gay gắt nhưng ông biết dừng đúng chỗ, đúng lúc. Khi đàm phán đi vào bế tắc, ngõ cụt nhất là việc Mỹ đòi quân đội miền Bắc rút khỏi miền Nam như quân đội Mỹ. Đó là điều không thể được. Nhưng ông biết biến hóa để phá vỡ bế tắc. Ông đưa ra sáng kiến vấn đề lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam do các bên Việt Nam giải quyết với nhau. Cuối cùng Mỹ không có sự lựa chọn nào khác đành phải chấp nhận phương án đó. Đó là dũng khí của một chiến sĩ cách mạng kiên cường, của một nhà thương lượng ngoại giao đầy bản lĩnh. Trong suốt quá trình thương lượng, phía Mỹ không ít lần đưa ra những lời đe dọa. Đồng chí Lê Đức Thọ đã không ngần ngại đáp lại: “Chúng tôi đã đánh nhau với các ông 10 năm và cũng đã đàm phán 5 năm rồi. Nay các ông có sẵn sàng mới đi đến giải quyết, không thể dùng đe dọa với chúng tôi được đâu”. Và đúng như vậy, dưới mái đầu bạc trắng như mây, vẫn toát lên những lời nói đanh thép, nhiều lần Kissinger phải cúi gầm mặt xuống nghe đồng chí Lê Đức Thọ nói với những từ ngữ khá nặng nề như lừa dối, ngu xuẩn, tráo trở, lật lọng… Thật là dũng cảm! Không có dũng khí không làm được. Khi nghỉ giải lao, Kissinger hỏi đồng chí Lê Đức Thọ: “Ông có bao giờ mắng cán bộ mình như mắng tôi không?”. Đồng chí Lê Đức Thọ nói: “Tôi chỉ nói lên tiếng nói của nhân dân tôi thôi. Cán bộ của tôi có quay quắt, lật lọng, tráo trở đâu mà tôi mắng họ”.
Ngũ tri và “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là điều mà Bác Hồ luôn căn dặn các nhà ngoại giao Việt Nam. Ở đồng chí Lê Đức Thọ những điều đó hình như đã nhập tâm, đã nhuần nhuyễn. Cái bất biến trong thương lượng của ông với Kissinger là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” nhưng muốn bảo vệ được cái bất biến đó thì cần phải biết cách vạn biến và trí tuệ của ông được thể hiện chính là ở đây và điều này cũng toát lên tài trí và sự khôn khéo của nhà ngoại giao tài ba Lê Đức Thọ.
Với Hiệp định Paris 1973, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu đánh cho Mỹ cút; tạo thế và lực tiến tới đánh cho ngụy nhào, đưa đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Hòa bình được lập lại, nhân dân phấn khởi xây dựng đất nước nhưng chẳng được bao lâu, năm 1978, bọn diệt chủng Pônpốt cho quân sang xâm lược, giết hại đồng bào ta ở biên giới Tây - Nam. Đứng trước những hành động bạo ngược đó và hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh trả hành động xâm lược của bọn diệt chủng Pônpốt, đồng thời giúp đỡ nhân dân Campuchia loại trừ nạn diệt chủng vô cùng khủng khiếp đó. Và tiếp ngay sau đó, tháng 2-1979 lại nổ ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Thời kỳ đó đất nước ta lại bị bao vây cấm vận nghiệt ngã, nhiều khó khăn và thách thức đặt ra. Đồng chí Lê Đức Thọ lúc đó được Bộ Chính trị phân công phụ trách mảng công tác đặc biệt khó khăn nhất, trực tiếp chỉ đạo công tác có liên quan đến quan hệ với Campuchia. Và sau đó đồng chí phụ trách khối tư tưởng, nội chính và ngoại giao.
Công tác ngoại giao lại được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí. Thời kỳ đó đồng chí có đóng góp rất lớn cho mối quan hệ Việt Nam - Campuchia và tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia tiến tới việc ký kết Hiệp định về Campuchia tháng 10 năm 1991. Những năm sau này tôi mới được làm việc trực tiếp với đồng chí Lê Đức Thọ. Hơn mười năm sau Hội nghị Paris mà đồng chí vẫn sôi nổi, quyết liệt, quyết đoán và quyết tâm như hồi nào. Có một vài lần đồng chí đã cho những ý kiến nhận xét, phê phán gay gắt vào những đề án đấu tranh ngoại giao của chúng tôi trình lên nhưng chưa đạt yêu cầu. Nhiều lúc tôi ngồi nghe mà toát cả mồ hôi, nhưng về cơ quan bình tĩnh suy ngẫm kỹ mới thấy nhiều điều được soi sáng. Đầu năm 1990 thật là một tổn thất to lớn khi ông ốm nặng chúng tôi không xin được ý kiến chỉ đạo của ông về công tác ngoại giao, nhất là những vấn đề liên quan đến Campuchia đang đi vào giai đoạn cuối của giải pháp.
Ngày 13 tháng 10 năm 1990, đồng chí ra đi vĩnh viễn. Ngành Ngoại giao mất đi một người Thầy, một người Anh, một nhà lãnh đạo. Những năm tiếp theo chúng ta đi những bước lớn trong quan hệ quốc tế, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, với Mỹ, gia nhập ASEAN, APEC và các mối quan hệ khác. Vắng đồng chí Lê Đức Thọ ở tầm lãnh đạo cao, chúng tôi cảm thấy thiệt thòi. Không được tiếp nhận sự chỉ đạo của ông, nhất là không được nghe ông phân tích lý giải sự việc để tránh được những mưu mẹo, ý đồ của người khác mà tầm suy nghĩ của chúng tôi chưa với tới.
Vào những ngày cuối của cuộc đời, đồng chí vẫn chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo. Bộ Ngoại giao lúc đó tìm được chiếc máy từ của Ấn Độ chữa trị cho căn bệnh đó. Anh Nguyễn Cơ Thạch bảo tôi cầm chiếc máy đó sang nhà ông để hướng dẫn cho bác sĩ điều trị. Nằm trên giường bệnh, gặp tôi ông chìa tay ra nắm tay tôi và nói: “Niên đấy à”. Ít lần tôi được trực tiếp gặp riêng ông, nhưng ông vẫn nhớ tên. Vì bệnh tình lúc đó quá nặng nên không thể cứu chữa được nữa. Chúng tôi vô cùng xót xa và thương tiếc một tài năng như ông.
Những gì ông cống hiến cho nền ngoại giao Việt Nam là những bài học vô cùng quý giá cho các thế hệ ngoại giao hiện tại và tương lai. Học tấm gương sáng của ông, tôi nghĩ các nhà ngoại giao cần phải: Suốt đời phục vụ cho lợi ích của đất nước, của nhân dân; bản lĩnh vững vàng, kiên cường bất khuất trong đấu tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; không ngừng học tập để nâng cao trí thức về mọi mặt; quyết liệt trong mọi công tác được giao phó để hoàn thành bằng được nhiệm vụ dù khó khăn đến đâu.
Lê Đức Thọ là con người đấu tranh không khoan nhượng để bảo vệ cái đúng, chống cái sai. Chính cái không khoan nhượng đó đã đưa đến sự hiểu biết khác nhau về con người ông. Khi làm thơ thi sĩ phải thật lòng. Không thật thì làm sao có cảm xúc để có những vần thơ hay. Hãy đọc những vần thơ của Lê Đức Thọ. Trong thơ ông giãi bày tình cảm của ông đối với đất nước, quê hương, với đồng bào, đồng chí, với cán bộ, với chiến sĩ… Tình thương của ông là bao la, là chân thật từ trái tim ông. Tôi mong rằng thời gian sẽ giúp chúng ta nhìn nhận đúng như chính con người của ông, không thêm bớt. Lịch sử vốn trung thực, nhân dân vốn công bằng.
Từ lăng kính ngoại giao, chúng tôi chỉ muốn sự trung thực đến với ông, một con người đã hiến dâng trọn cuộc đời cho cách mạng và dân tộc. Hôm nay, nhân kỷ niệm ngày sinh thứ 100 của ông, tôi xin được thắp nén nhang với một chén nước trắng tinh khiết từ lòng đất của quê hương Nam Định trên bàn thờ ông để tỏ tấm lòng tôn kính và tri ân ông./.