Nhà thương thuyết chiến lược Lê Đức Thọ và hội nghị Paris

08:08, 25/08/2011

Hơn 5 năm bên bàn đàm phán ở Paris, Cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ là những nhà thương thuyết tài ba, một “cặp bài trùng” trong “Ván bài lật ngửa” buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam; thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”.  Với bề dày cách mạng, tầm nhìn xa trông rộng, bản lĩnh chính trị vững vàng, Cố vấn Lê Đức Thọ luôn đưa ra những sáng kiến, giải pháp ngoại giao chiến lược trên cơ sở kết hợp tình hình trong nước với bối cảnh quốc tế; đánh giá ý đồ, âm mưu đối phương, đánh giá ý kiến của các nước anh em, dự kiến các khả năng; đặt lợi ích của dân tộc Việt Nam với lợi ích của cách mạng và hoà bình thế giới làm mục đích đấu tranh ngoại giao chủ đạo. Tính kiên quyết khảng khái, không khoan nhượng trước kẻ thù nhằm bảo vệ chính nghĩa, lẽ phải tại các cuộc thương thuyết công khai và bí mật, đồng chí Lê Đức Thọ luôn giữ vững nguyên tắc nhưng khôn khéo, mềm dẻo và sách lược, chiến lược... làm cho kẻ thù phải khâm phục, trân trọng.

I: VÁN BÀI LẬT NGỬA

Năm 1965, cùng với hành động tăng cường chiến tranh xâm lược miền Nam dưới hình thức chiến tranh cục bộ, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc. Chính quyền Giônxơn nói nhiều đến hoà bình thương lượng, nhưng đó chỉ là luận điệu ngoại giao lừa bịp, một thủ đoạn chính trị thấp hèn nhằm phối hợp với hoạt động quân sự của chúng.

Sau thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, ta chủ trương đồng thời với mũi tiến công địch trên các mặt trận quân sự, chính trị cần mở rộng mặt trận ngoại giao nhằm tố cáo tội ác của bọn xâm lược Mỹ, vạch trần luận điệu hoà bình giả hiệu của chúng, nêu tính chất chính nghĩa, lập trường đúng đắn của ta, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế.

 Hội nghị ký kết Hiệp định Paris 1973. Ảnh: TL
Hội nghị ký kết Hiệp định Paris 1973.
Ảnh: Internet

Ngày 31-3-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm lung lay ý chí xâm lược của quân viễn chinh Mỹ, buộc chúng phải tuyên bố “Phi Mỹ hoá” chiến tranh (tức là thừa nhận thất bại của chiến tranh cục bộ), chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, phải chấp nhận đến Hội nghị Paris để bàn về chấm dứt chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.   

Ngày 13-5-1968, cuộc thương lượng chính thức giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đại diện Chính phủ Hoa Kỳ họp phiên đầu tiên tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber (Paris - Pháp), thu hút hàng ngàn nhà báo, nhà điện ảnh. Phái đoàn Mỹ do Haman - người đã từng tham gia các cuộc đàm phán cấp cao của các nước đồng minh chống phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 dẫn đầu. Phía Việt Nam do đồng chí Xuân Thuỷ làm Trưởng đoàn. Cuộc “chiến tranh” quanh tấm thảm xanh trong lúc bom vẫn nổ trên chiến trường. Dư luận quốc tế đặt vấn đề: “Người Việt Nam đã lần lượt làm thất bại các kế hoạch chiến tranh của Mỹ, không thể nghi ngờ tài năng quân sự của họ. Nhưng giờ đây, chiến lược ngoại giao của Việt Nam liệu có đạt được hiệu quả như chiến lược quân sự hay không?”.

Sau một tháng “đọ gươm” ở hội trường Kléber, ngày 12-6-1968 người ta thấy xuất hiện trong Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà một gương mặt mới - đồng chí Lê Đức Thọ - với vai trò Cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Xuân Thuỷ. Các nhà báo còn “lạ lẫm” với ông, nhưng cơ quan tình báo Pháp và Mỹ đã có hồ sơ đầy đủ: “Ông là một nhà hoạt động cách mạng từ thời niên thiếu, tên thật là Phan Đình Khải, quê ở xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc (nay là xã Nam Vân - Thành phố Nam Định). Ông đã trải qua nhiều năm tháng trong chốn lao tù; từ nhà pha Hoả Lò ở Hà Nội đến nhà tù Sơn La, ngục Côn Đảo. Cuộc sống đã rèn luyện ông thành một chiến sỹ cộng sản kiên cường và sớm đưa ông vào hàng ngũ những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Năm 1968, khi đang là Uỷ viên Bộ Chính trị, ông được coi là người có mưu lược, vững vàng, biết quyết đoán khi cần thiết. Sau Tết Mậu Thân, ông được điều vào miền Nam tăng cường cho Trung ương Cục. Cuối đợt 2 của cuộc Tổng tiến công bắt đầu từ ngày 4-5-1968, Hồ Chủ tịch gọi ông ra Hà Nội và cử ông làm Cố vấn đặc biệt cho Bộ trưởng Xuân Thuỷ”.

Giữa tháng 6 năm 1968, Bộ Chính trị có chủ trương cho phái đoàn ta thực hiện tiếp xúc riêng để thăm dò “tìm hiểu ý đồ của Mỹ”. Những cuộc tiếp xúc riêng cấp cao từ đầu tháng 9 năm 1968 cho đến ngày thoả thuận về việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện để đi đến giải pháp chính trị 30-10-1968 có thể chia làm 2 bước: Bước 1 là thăm dò “tìm hiểu ý đồ của Mỹ"; bước 2 là đi đến thoả thuận.

Trong các cuộc gặp riêng bước 1, cùng với Bộ trưởng Xuân Thuỷ, Cố vấn Lê Đức Thọ với tầm nhìn xa trông rộng về chiến lược và khôn khéo, kiên quyết về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược… đã buộc Mỹ phải chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện và họp bốn bên. Sau hơn hai tháng tiếp xúc sơ bộ, Cố vấn Lê Đức Thọ nhận định lý do quan trọng khiến chính phủ Hoa Kỳ nôn nóng muốn đi sớm vào đàm phán, về thực chất vấn đề là do tình hình chính trị nội bộ nước Mỹ đang có khủng hoảng sâu sắc. Lúc này, tình hình chiến trường chưa có gì thúc bách đối với địch, những cuộc vận động bầu cử tổng thống ở Mỹ đang đi vào giai đoạn gay gắt, trong đó vấn đề Việt Nam được xem là “yếu tố số 1” giữa hai ứng cử viên của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà. Để giành lại lợi thế cho Humphrey (ứng cử viên của Đảng Dân chủ), Tổng thống Mỹ Giônxơn cần phải chấm dứt ném bom miền Bắc để đẩy cuộc đàm phán Paris sang giai đoạn mới mà vẫn tranh thủ được dư luận Mỹ và thế giới - không bị Đảng Cộng hoà của Nixon công kích là “đầu hàng Việt cộng”. Vì vậy, trong các cuộc thương thuyết, Haman cố giữ lập trường “chấm dứt ném bom có điều kiện”; ngụy trang những điều kiện trên bằng những mỹ từ như: “cử chỉ đáp lại” của Bắc Việt Nam, “hoàn cảnh” để Mỹ chấm dứt ném bom. Cụ thể là, Mỹ đòi khôi phục quy chế khu phi quân sự, đòi ta không tiến công, hạn chế việc đưa lực lượng, hậu cần và thiết bị chiến tranh vào miền Nam, không bắn pháo vào Sài Gòn và các thành phố miền Nam.

Trong phiên họp ngày 20-9-1968, khi bàn về vấn đề chính quyền Sài Gòn tham gia đàm phán, Haman khẳng khái tuyên bố: “… Đây là yếu tố quan trọng làm dễ dàng cho Tổng thống Giônxơn quyết định chấm dứt ném bom”. Cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ chất vấn lại và kiên quyết lập trường:

- Nguỵ quyền Sài Gòn không phải là đại diện cho nhân dân Nam Việt Nam. Chúng tôi không thừa nhận bọn Thiệu - Kỳ.

Haman không giữ được bình tĩnh:
- Nếu các ông bác bỏ như vậy thì chiến tranh lại tiếp tục. Bom lại rơi trên đầu các ông!
Cố vấn Lê Đức Thọ phê phán:

- Các ông muốn ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam ư? Chúng tôi sẵn sàng chống lại. Nhân dân chúng tôi đã quen chống lại bom xâm lược rồi, các ông định đưa chiến tranh ra doạ chúng tôi sao được!

Sau cuộc họp này, Đoàn ta báo cáo về, Bộ Chính trị nhận định: “Mỹ đã ngả bài”. Trong 2 tháng đấu trí căng thẳng, cuối cùng ngày 01-11-1968, Giônxơn phải bỏ hết các yêu sách và tuyên bố “Chấm dứt mọi cuộc oanh tạc bằng không quân, hải quân, pháo binh và hành động liên quan tới việc dùng vũ lực trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Sau sự kiện này, Chính phủ ta ra tuyên bố: “Việc Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc không điều kiện, đánh dấu một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam ở 2 miền”.

Thắng lợi to lớn này bắt nguồn từ thế và lực trên chiến trường đã thay đổi có lợi cho ta sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, đồng thời mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ lên cao độ; nhưng yếu tố quyết định là sự chỉ đạo chặt chẽ, sáng suốt của Bác Hồ và Bộ Chính trị đối với cuộc đấu tranh ngoại giao, trên bàn đàm phán đã giữ vững, kiên trì nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Trong nguyên nhân thắng lợi quan trọng này, Cố vấn Lê Đức Thọ đã đóng góp tâm sức và trí lực vào thắng lợi chung./.

(Còn nữa)
Việt Thắng (Biên soạn)
-------------------------
Tài liệu tham khảo:
1, Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Lê Đức Thọ (Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)
2, "Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam" (NXB Sự thật, 1988)
3, "Một số vấn đề tổng kết chiến tranh và biên soạn Lịch sử dân tộc" (NXB Sự thật, 1989)
4, "Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris" (NXB Công an Nhân dân, 2002)
5, "Nhớ về anh Lê Đức Thọ" (NXB CTQG, 2000)

[links()]



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Giấy phép số: 136/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 17/3/2022.

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com