Ngày 21-3, tại phiên khai mạc kỳ họp thứ chín, kỳ họp cuối cùng của Quốc hội (QH) khóa XII, Tổng Bí thư, Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng đã trình bày Báo cáo tổng kết hoạt động của QH nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011). Chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc Báo cáo quan trọng nói trên.
Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc kỳ họp. |
Quốc hội khóa XII được cử tri cả nước bầu ra ngày 20 tháng 5 năm 2007 và hoạt động trong bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa có những khó khăn thách thức. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Ðảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sau hơn 20 năm, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; chính trị xã hội ổn định; uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, từng bước tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế vẫn ở trình độ thấp; chất lượng tăng trưởng còn hạn chế; cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập; thiên tai, dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi... Tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, nhất là cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ và suy giảm kinh tế thế giới đã tác động bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng còn tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, tranh chấp lãnh thổ, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố... vẫn diễn ra gay gắt.
Trong bối cảnh đó, Quốc hội khóa XII đã kế thừa, phát huy những thành quả, bài học kinh nghiệm của Quốc hội các khóa trước, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh mẽ cả về tổ chức và phương thức hoạt động, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp to lớn vào những thành tựu chung của đất nước.
I - Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội
1. Hoạt động lập pháp tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều tiến bộ cả về số lượng, chất lượng và quy trình, thủ tục; cơ bản đáp ứng được yêu cầu đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Với sự phấn đấu nỗ lực, không ngừng đổi mới, trong 4 năm, Quốc hội đã thông qua được 68 (1) luật, 12 nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 13 pháp lệnh và 7 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Các văn bản pháp luật được ban hành bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý và điều hành kinh tế - xã hội của đất nước.
Nội dung các đạo luật điều chỉnh bao gồm hầu hết các lĩnh vực, từ quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật đến các vấn đề về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, dân sự, hình sự, tư pháp, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý nợ công; trưng mua, trưng dụng tài sản; thuế sử dụng đất nông nghiệp, tài nguyên, thu nhập cá nhân... Ðồng thời, quan tâm sửa đổi, bổ sung kịp thời một số chế định pháp luật không còn phù hợp thuộc các lĩnh vực: ngân hàng; tín dụng; thuế; đầu tư xây dựng cơ bản; phòng, chống tham nhũng; quốc tịch; giao thông đường bộ; xuất bản; sở hữu trí tuệ... để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Quy trình lập pháp tiếp tục được đổi mới, cải tiến theo hướng nâng cao chất lượng, tăng tính chủ động, cụ thể trong văn bản pháp luật. Một số khâu trong quy trình lập pháp đã có sự thay đổi, bảo đảm khoa học, dân chủ và chặt chẽ hơn. Việc điều chỉnh thời điểm thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và linh hoạt giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung khi cần thiết và báo cáo Quốc hội; giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội chủ trì chỉ đạo việc tiếp thu, chỉnh lý dự án trình Quốc hội thông qua, đã tạo điều kiện có thêm thời gian và chủ động hơn trong chuẩn bị, xây dựng và hoàn thiện văn bản. Việc quy định vấn đề lồng ghép giới trong quy trình lập pháp là một bước tiến bộ, phù hợp với xu hướng của thế giới. Thực tiễn chứng minh những điều chỉnh mới trong nhiệm kỳ này là phù hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật.
Công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh được tiến hành tích cực, có sự phân công rõ ràng cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp. Các cơ quan của Quốc hội đã chủ động nghiên cứu, khảo sát thực tế, tham khảo, lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, các chuyên gia, nhà khoa học, ý kiến cử tri v.v. Vì vậy, các báo cáo thẩm tra bảo đảm chất lượng, thể hiện rõ chính kiến, có tính phản biện cao, có cơ sở khoa học và thực tiễn hơn. Công tác chỉnh lý, hoàn thiện văn bản trước khi trình Quốc hội thông qua được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, thận trọng.
Các Ðoàn đại biểu Quốc hội đã có nhiều hình thức thảo luận, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức hữu quan và cá nhân ở địa phương vào các dự án luật. Các vị đại biểu Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động nghiên cứu, tích cực đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng văn bản ban hành.
Việc công khai dự thảo văn bản trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên các trang thông tin điện tử đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp kịp thời nắm bắt được dự kiến những thay đổi về chính sách, pháp luật để đóng góp ý kiến xây dựng văn bản và chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện sau này.
2- Hoạt động giám sát được tăng cường, có nhiều đổi mới về cách thức tiến hành, nhất là chất vấn và giám sát chuyên đề. Thông qua giám sát đã kịp thời phát hiện và có các kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung, phát huy tính tích cực, giảm thiểu những hệ lụy nẩy sinh từ chính sách; chấn chỉnh kịp thời các sai sót, khuyết điểm, thúc đẩy thực hiện tốt các nhiệm vụ. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực. Ðặc biệt, Quốc hội đã tiến hành giám sát tối cao sáu chuyên đề (2) và ra nghị quyết nêu rõ yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể mà Chính phủ, các cơ quan liên quan phải tập trung thực hiện, trong đó, có nội dung được giám sát hai lần như đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước ở các Bộ, ngành, địa phương.
Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục được cải tiến mạnh mẽ theo hướng tập trung hơn, thực chất hơn, phản ánh sát thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân, làm rõ thêm tình hình, nguyên nhân, chỉ ra trách nhiệm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện chủ trương, chính sách của Ðảng và nghị quyết của Quốc hội. Cách thức tiến hành chất vấn được cải tiến theo nhóm vấn đề với sự tham gia của Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ và nhiều Bộ trưởng, Trưởng ngành; tăng thời gian đối thoại, tạo không khí cởi mở, thẳng thắn. Sau chất vấn, các cá nhân và cơ quan có liên quan đã nghiêm túc xem xét những vấn đề đại biểu nêu lên, như rà soát quy hoạch, quản lý cấp phép sân golf; điều hành thu mua xuất khẩu gạo; xây dựng một số công trình thủy điện vừa và nhỏ; quản lý thị trường ngoại hối, thị trường vàng; chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có công... Việc theo dõi thực hiện lời hứa của người trả lời chất vấn được thực hiện thường xuyên hơn. Thực tế cho thấy, hoạt động giám sát chuyên đề và chất vấn thời gian qua đã góp phần tích cực giải quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra, có tác động thiết thực trong thực tế, thúc đẩy các cơ quan nhà nước khắc phục những thiếu sót, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Những điểm mới là Quốc hội đã ra nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn; xem xét báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát giải quyết kiến nghị của cử tri. Việc làm này đã tác động tích cực đến tâm tư, tình cảm, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào Ðảng, Nhà nước, khuyến khích nhân dân tích cực tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Ðồng thời là căn cứ để đại biểu Quốc hội tiếp tục chất vấn, làm rõ trách nhiệm của các Bộ trưởng, Trưởng ngành, nhất là những vấn đề đã hứa trước Quốc hội và cử tri.
Hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được tiến hành tích cực, chủ động trên các lĩnh vực được phân công phụ trách; có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức giám sát, có sự kết hợp giữa giám sát chuyên đề và giám sát thường xuyên; phối hợp với các cơ quan hữu quan trong hoạt động giám sát chặt chẽ hơn. Chất lượng thẩm tra các báo cáo, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo... ngày càng được nâng cao. Việc tổ chức chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội và tổ chức hoạt động giải trình tại Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội là điểm mới trong nhiệm kỳ này, bước đầu đạt được những kết quả nhất định. Các nhận định, đánh giá trong báo cáo giám sát đã phản ánh sát thực và khách quan tình hình thực tiễn, nêu rõ những kết quả đạt được, kịp thời phát hiện những hạn chế, vướng mắc trong cơ chế, chính sách, pháp luật, những yếu kém trong quản lý, điều hành. Các đề xuất, kiến nghị trong báo cáo giám sát cụ thể, có tính khả thi và tạo được sự đồng thuận cao đã có tác dụng tích cực cho các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp cũng như trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách.
Các Ðoàn đại biểu Quốc hội đã có nhiều cố gắng trong tiến hành hoạt động giám sát tại địa phương. Qua giám sát, nhiều kiến nghị có chất lượng đã được các bộ, ngành, cơ quan hữu quan ở trung ương và địa phương xem xét giải quyết. Ðồng thời, đã phối hợp tốt trong việc giám sát chuyên đề theo chương trình giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia hoạt động giám sát, hoạt động tiếp xúc cử tri, qua đó, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của đại biểu nhân dân.
3- Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng có chất lượng, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Trong bối cảnh có những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới tác động bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội, Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri; thảo luận, tranh luận thẳng thắn và đề ra những giải pháp phù hợp, góp phần làm chuyển biến tình hình, bảo đảm ổn định và phát triển đất nước. Các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; về ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu duy trì tăng trưởng hợp lý; về điều chỉnh mục tiêu tổng quát, một số chỉ tiêu chủ yếu (tốc độ tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước...); phát hành trái phiếu Chính phủ để tập trung xây dựng những công trình giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế... phù hợp với tình hình thực tế, đã góp phần cùng Chính phủ, các cấp, các ngành khắc phục khó khăn thách thức, đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Thực tế đã chứng minh, những điều chỉnh đó là cần thiết, đúng đắn và kịp thời, thể hiện bước tiến mới về năng lực lãnh đạo, trình độ dự báo, khả năng phản ứng chính sách và bản lĩnh vững vàng của Ðảng và Nhà nước ta.
Các Nghị quyết về ngân sách ngày càng được nâng cao về chất lượng, góp phần giữ vững các cân đối vĩ mô, cân đối ngân sách nhà nước một cách tích cực; đẩy mạnh sự phân công, phân cấp, tạo sự chuyển biến quan trọng, chủ động trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Ðồng thời, bảo đảm những điều kiện vật chất để xử lý kịp thời các vấn đề cấp bách phát sinh; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nhất là trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước.
Các quyết định về chủ trương đầu tư dự án thủy điện, điện hạt nhân; về rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội, kéo dài nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân; điều chỉnh địa giới hành chính; thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường...; về chưa đầu tư dự án xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh; về bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm nhân sự cấp cao của Nhà nước..., đều được Quốc hội xem xét kỹ lưỡng, thận trọng, bảo đảm quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai, gắn với việc thực hiện chức năng giám sát, nhất là quy trình thông qua các vấn đề kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước.
4- Hoạt động đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh. Tăng cường đối ngoại song phương, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới. Củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN và Ðông - Bắc Á, đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ, nghị viện châu Âu, nghị viện nhiều nước thuộc liên minh châu Âu, đưa các mối quan hệ này đi vào thực chất, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu; khai thông và phát triển quan hệ với nghị viện nhiều nước thuộc khu vực châu Phi và các nước Trung, Nam Mỹ theo chủ trương chung của Ðảng và Nhà nước ta; quan tâm đẩy mạnh và củng cố quan hệ truyền thống với các nước Trung và Ðông Âu, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục tăng cường hoạt động đối ngoại đa phương trên các diễn đàn khu vực và thế giới như Ðại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Ðông - Nam Á, Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương, Liên minh Nghị viện Thế giới, Liên minh Nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ, Hội nghị đối tác Nghị viện Á - Âu. Tham gia đóng góp tích cực vào các diễn đàn, chủ động đề xuất các sáng kiến, những khuyến nghị nhằm thúc đẩy hợp tác có hiệu quả của các tổ chức này; một số sáng kiến được nghị viện các nước tán thành và đưa vào Nghị quyết của Ðại hội đồng. Ðặc biệt, việc Quốc hội nước ta đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch và tổ chức thành công Ðại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các nước Ðông - Nam Á lần thứ 31; được bầu làm Phó Chủ tịch Ðại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới nhiệm kỳ 2010 - 2011; đảm nhận cương vị Chủ tịch Nhóm ASEAN + 3 đã đánh dấu sự trưởng thành mạnh mẽ của ngoại giao nghị viện Việt Nam, góp phần thiết thực vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực của nước ta.
Thông qua con đường ngoại giao nghị viện, các Ðoàn của Quốc hội Việt Nam đã trực tiếp tham gia đối thoại nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, những xung đột về quan hệ thương mại và đã thu được những kết quả tích cực. Công tác tuyên truyền đối ngoại được đẩy mạnh, góp phần vào việc thông tin, quảng bá hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế; phát triển các quan hệ kinh tế và nâng cao vai trò, vị thế của nước ta nói chung, Quốc hội nói riêng trên trường quốc tế.
II - Tổ chức, phương thức hoạt động, chế độ làm việc và quan hệ công tác của Quốc Hội
1. Về tổ chức, Quốc hội khóa XII có 493 đại biểu. Các cơ quan của Quốc hội có Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Hội đồng Dân tộc và 09 Ủy ban (gồm: Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính, Ngân sách; Ủy ban Quốc phòng và An ninh, Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Ủy ban về các vấn đề xã hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường và Ủy ban Ðối ngoại), tăng thêm 2 Ủy ban so với nhiệm kỳ trước.
Cơ cấu đại biểu nhìn chung bảo đảm yêu cầu theo quy định của pháp luật về bầu cử và tổ chức Quốc hội, có sự kế thừa và phát triển mô hình nhiệm kỳ Quốc hội khóa trước; bảo đảm hợp lý hơn tỷ lệ, cơ cấu đại biểu Quốc hội.
Ðiểm mới quan trọng là số đại biểu Quốc hội chuyên trách được tăng cường với 145 người, chiếm 29,41% tổng số đại biểu Quốc hội, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ, kiện toàn các cơ quan của Quốc hội và các Ðoàn đại biểu Quốc hội.
2. Về phương thức hoạt động và chế độ làm việc, đến nay, Quốc hội khóa XII đã tiến hành 09 kỳ họp. Hoạt động tại kỳ họp được thực hiện đúng quy định của pháp luật ngày càng dân chủ, cởi mở, hiệu quả và đổi mới. Các vấn đề được đưa ra thảo luận, xem xét quyết định tại kỳ họp ngày càng nhiều, chất lượng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu thực tế cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân. Công tác điều hành vừa bảo đảm nguyên tắc vừa rất linh hoạt, xử lý hài hòa các mối quan hệ. Các vị đại biểu Quốc hội đóng góp ý kiến thẳng thắn, trách nhiệm và xây dựng. Quy trình tiến hành kỳ họp thường xuyên được cải tiến, bảo đảm hợp lý và khoa học, vừa rút ngắn thời gian, vừa bảo đảm chất lượng, cụ thể như tiến hành phiên họp trù bị ngay trước phiên khai mạc, rút ngắn được thời gian đọc tờ trình, dự án; rút ngắn thời gian phát biểu mỗi lần của đại biểu; cải tiến công tác tổng hợp, trên cơ sở đó lựa chọn những vấn đề tập trung thảo luận; báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri được trình bày ngay sau báo cáo của Chính phủ về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước...
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp 38 phiên thường kỳ theo luật định. Việc xem xét các vấn đề thuộc thẩm quyền tại phiên họp được thực hiện nghiêm túc, đúng trình tự, thủ tục với tinh thần trách nhiệm cao của từng thành viên và tập thể. Việc tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn tại 5 phiên họp là đổi mới tại nhiệm kỳ này, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, được đại biểu Quốc hội và cử tri hoan nghênh. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thường xuyên quan tâm nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, nhất là phối hợp trong hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng.
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã không ngừng nghiên cứu, cải tiến phương thức làm việc, phát huy trí tuệ tập thể và năng lực, sở trường của mỗi thành viên; chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan; tăng cường hội thảo, tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học... Nhiều báo cáo thẩm tra có tính phản biện cao, tỏ rõ chính kiến, có căn cứ pháp lý, cơ sở thực tiễn và khoa học đã tạo thuận lợi để Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định các nội dung thuộc thẩm quyền. Việc chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật được thực hiện công phu. Hoạt động giám sát được tiến hành thường xuyên, đi sâu vào các vấn đề bức xúc được cử tri và dư luận xã hội quan tâm.
Các Ðoàn đại biểu Quốc hội đã phát huy vai trò trong việc tổ chức, tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội mở rộng quan hệ với cử tri, hỗ trợ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Ðồng thời đã thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng pháp luật, giám sát, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, theo dõi đôn đốc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân...; giữ mối quan hệ công tác và phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân và các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan khác ở địa phương, ở trung ương và các hoạt động tại kỳ họp Quốc hội.
Các đại biểu Quốc hội nhìn chung đã chấp hành tốt Nội quy kỳ họp Quốc hội; tích cực tham gia hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, của Ðoàn đại biểu Quốc hội mà đại biểu Quốc hội là thành viên; đã triển khai nhiều hoạt động với tư cách cá nhân đại biểu Quốc hội để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật; thường xuyên gắn bó, nắm bắt ý kiến, kiến nghị của cử tri, phát hiện các vấn đề bức xúc trong thực tiễn để đề xuất ý kiến, thảo luận hoặc thực hiện quyền chất vấn...
3. Về bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng, giữ mối liên hệ với cử tri và quan hệ công tác với các cơ quan, tổ chức.
Quốc hội khóa XII luôn nắm vững, quán triệt nghiêm túc, thể chế hóa kịp thời, đúng đắn các chủ trương, đường lối của Ðảng trong hoạt động xây dựng pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao. Phương thức quán triệt, vận dụng ngày càng được đổi mới, bảo đảm dân chủ, hiệu quả. Các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội tích cực đóng góp ý kiến, kiến nghị với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư những vấn đề thuộc đường lối, chủ trương quan trọng liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, bảo đảm sự đồng thuận trong việc xem xét, quyết định nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước; nâng cao trách nhiệm và phát huy tính chủ động, sáng tạo của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội, các đại biểu Quốc hội; tạo cơ chế thuận lợi để đại biểu Quốc hội là đảng viên có thể kết hợp hài hòa giữa việc chấp hành nguyên tắc, quy định của Ðảng với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu nhân dân.
Công tác tiếp xúc cử tri có đổi mới theo hướng ngày càng thiết thực, hiệu quả. Hình thức tiếp xúc cử tri phong phú; thành phần tham gia rộng rãi, bước đầu khắc phục tình trạng ’đại cử tri’, ’cử tri chuyên nghiệp’. Ðịa bàn tiếp xúc được mở rộng tới các thôn, bản, xã, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa... Nội dung, chương trình, thời điểm tiếp xúc cử tri được thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Một số nơi có hình thức tiếp xúc cử tri theo chuyên đề hoặc theo ngành, giới; kết hợp việc kiến nghị Quốc hội với giải quyết những vấn đề cụ thể, bức xúc tại địa phương, cơ sở. Công tác phối hợp trong tổ chức, phục vụ tiếp xúc cử tri ngày càng được tăng cường. Ý kiến, kiến nghị của cử tri được tổng hợp đầy đủ, phản ánh kịp thời với Quốc hội và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhìn chung, công tác tiếp xúc cử tri đã tạo được không khí dân chủ, cởi mở, thẳng thắn, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Qua đó, cử tri cũng ngày càng có ý thức cao hơn trong việc tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị xây dựng địa phương, xây dựng đất nước.
Công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn, thư của công dân được triển khai thường xuyên, đạt được những kết quả đáng khích lệ. Việc báo cáo công khai ra Quốc hội kết quả giám sát việc giải quyết các kiến nghị của cử tri tuy mới thực hiện tại vài ba kỳ họp gần đây nhưng đã có tác dụng thúc đẩy trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết đơn thư, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Mối quan hệ phối hợp công tác với Chủ tịch nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác được tăng cường, nền nếp và hiệu quả hơn. Các quy chế phối hợp công tác được tổ chức thực hiện có hiệu quả và kịp thời sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình mới. Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ thường xuyên trao đổi công tác, thống nhất chỉ đạo về những vấn đề cần có sự phối hợp, nhất là chuẩn bị cho các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Mối quan hệ với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan hữu quan được đẩy mạnh, làm cho chất lượng chuẩn bị các nội dung trình Quốc hội xem xét, quyết định và hoạt động giám sát được nâng cao.
Tiếp tục phát huy kinh nghiệm các khóa trước, Quốc hội khóa XII luôn luôn coi trọng mối quan hệ công tác với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình tổ chức bầu cử, giám sát bầu cử, tuyên truyền động viên các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ; tham gia đóng góp nhiều ý kiến cho hoạt động của Quốc hội... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tích cực tham gia vào quá trình chuẩn bị, tiến hành các hoạt động của Quốc hội, tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, nhất là trong việc thu thập, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri để báo cáo với Quốc hội.
Mối quan hệ công tác giữa các cơ quan của Quốc hội, Ðoàn đại biểu Quốc hội với Hội đồng nhân dân các địa phương được đẩy mạnh qua việc ban hành nhiều văn bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã tổ chức nhiều cuộc hội nghị, hội thảo khoa học, tọa đàm với sự tham gia của đại biểu Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân... nhằm trao đổi kinh nghiệm về công tác chuyên môn của cơ quan dân cử. Các vị đại biểu Quốc hội đã sắp xếp, bố trí thời gian tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân nơi được bầu để báo cáo kết quả kỳ họp Quốc hội, nắm tình hình và tham gia đóng góp vào các vấn đề quan trọng của địa phương. Các Ðoàn đại biểu Quốc hội đã phối hợp chặt chẽ với Thường trực Hội đồng nhân dân tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp ở địa phương về một số dự án luật quan trọng; tổ chức giám sát ở địa phương về một số vấn đề bức xúc được cử tri quan tâm... Những hoạt động nói trên đã góp phần tăng cường mối quan hệ công tác giữa cơ quan dân cử ở trung ương và địa phương cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân.
4. Bộ máy giúp việc không ngừng được củng cố, kiện toàn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Ðã có những điều chỉnh về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và thông tin khoa học hỗ trợ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao hoạt động của Quốc hội.
Ðội ngũ cán bộ, công chức giúp việc được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Công tác tham mưu tổng hợp có nhiều tiến bộ, chất lượng hơn. Cơ sở vật chất, kỹ thuật từng bước được tăng cường; quan hệ phối hợp, cộng tác thực hiện nhiệm vụ giữa các cơ quan giúp việc của Quốc hội và các cơ quan hữu quan ngày càng hiệu quả.
III- Ðánh giá chung, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm
1. Nhìn một cách tổng thể, có thể khẳng định, kết quả nổi bật trong nhiệm kỳ khóa XII là Quốc hội đã hoạt động ngày càng dân chủ, thiết thực và hiệu quả, có nhiều đổi mới cả trong tư duy và thực tiễn, hành động. Công tác xây dựng pháp luật tiếp tục được đổi mới về quy trình, bảo đảm tăng cả về số lượng và chất lượng, góp phần thể chế hóa kịp thời, đúng đắn đường lối của Ðảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước. Công tác giám sát được tăng cường với sự kết hợp của nhiều phương thức tổng hợp, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan của Quốc hội. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, thảo luận, ra Nghị quyết và giám sát thực hiện Nghị quyết đã được thông qua. Việc Quốc hội khóa XII giám sát giải quyết các kiến nghị của cử tri là một điểm mới, mang lại hiệu quả thiết thực. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đặc biệt là về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và công trình dự án quốc gia ngày càng có chất lượng hơn, bám sát và đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn. Hoạt động đối ngoại đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng nâng cao vị thế của đất nước Việt Nam và Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế. Tổ chức bộ máy được củng cố, kiện toàn, từng bước ổn định, cơ bản đáp ứng yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Phương thức, chế độ làm việc từng bước được cải tiến theo hướng phát huy dân chủ, tăng tính chủ động, sáng tạo, phối hợp tốt hơn giữa các đơn vị, cơ quan hữu quan...
Quốc hội đổi mới tổ chức và hoạt động, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ đã tạo ra nhiều nhân tố mới, góp phần tích cực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân do Ðảng lãnh đạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các kỳ họp của Quốc hội đã thực sự trở thành sự kiện chính trị cuốn hút và những phiên thảo luận về các dự án luật, tình hình kinh tế, xã hội, chất vấn và trả lời chất vấn sôi nổi, tâm huyết tại hội trường đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong cử tri và nhân dân cả nước. Hoạt động của Quốc hội đã làm sâu sắc hơn nhận thức về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần tăng cường sự gắn bó giữa nhân dân với Ðảng và Nhà nước, tạo ra một hình ảnh về sự năng động, dân chủ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Sở dĩ có được những kết quả nêu trên là do Quốc hội khóa XII đã không ngừng phát huy nhân tố nội lực, luôn luôn tìm tòi, sáng tạo và áp dụng nhiều cải tiến trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ - thành quả của sự nỗ lực, quyết tâm, tinh thần trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội. Ðồng thời, cũng là kết quả của tinh thần cộng tác, phối hợp chặt chẽ của Chủ tịch nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan hữu quan và sự đóng góp, ủng hộ của cử tri và nhân dân cả nước; sự kế thừa, phát huy, thành quả đạt được và kinh nghiệm của các nhiệm kỳ Quốc hội trước.
Tuy nhiên, Quốc hội khóa XII vẫn còn những hạn chế cả về tổ chức, hoạt động và phương thức, lề lối làm việc. Quy trình lập pháp tuy được cải tiến, nhưng vẫn chưa đồng bộ và có điểm chưa hợp lý. Trách nhiệm cơ quan trình dự án, cơ quan tham gia soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý cần tiếp tục được phân định rõ ràng hơn. Trong thảo luận, thông qua dự án, một số trường hợp chưa có sự tranh luận đầy đủ, đối thoại đến cùng. Một số quy định của Luật hoạt động giám sát còn thiếu cụ thể hoặc chưa thật phù hợp, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời, nhất là cơ chế giải quyết các kiến nghị sau giám sát. Công tác đảm bảo hoạt động giám sát cũng còn một số bất cập. Thông tin phục vụ Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước còn chưa đầy đủ, kịp thời. Chưa có cơ chế sử dụng các cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định các vấn đề khoa học, kỹ thuật, tính chính xác của số liệu trước khi cung cấp đến đại biểu Quốc hội. Sự phối hợp công tác giữa các cơ quan của Quốc hội và giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan hữu quan có lúc còn chưa được nhịp nhàng, chặt chẽ.
2. Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong cả nhiệm kỳ khóa XII có thể rút ra một số vấn đề sau đây:
Một là, sự phát triển của Quốc hội là một quá trình liên tục kế thừa và không ngừng đổi mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng. Kinh nghiệm thực tiễn của Quốc hội khóa trước luôn là bài học quý giá cho việc củng cố, nâng cao Quốc hội khóa sau. Mọi kết quả hoạt động của Quốc hội khóa sau là sự kế thừa và phát triển liên tục của Quốc hội khóa trước. Ðổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội cần được tiến hành chặt chẽ, đồng bộ, từ việc thử nghiệm mô hình và cách thức, phương pháp cho đến đổi mới về thể chế pháp luật. Ðổi mới phải được thực hiện một cách đúng đắn, bài bản, có định hướng mục tiêu rõ ràng, bước đi chắc chắn và mang lại hiệu quả thiết thực.
Hai là, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố quyết định để Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, hoàn thành tốt trọng trách mà nhân dân ủy thác. Ðây không chỉ là nguyên tắc trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước cũng như trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn là quan điểm chỉ đạo quá trình đổi mới, hoàn thiện nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động theo đúng định hướng chính trị của Ðảng. Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước luôn gắn liền với việc đổi mới, chỉnh đốn Ðảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Ðảng, bao gồm đổi mới cả nội dung và phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng.
Quốc hội luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn đường lối, quan điểm, chủ trương của Ðảng vào các hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng và trong hoạt động đối ngoại. Thực tế cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng tạo khả năng xây dựng một cơ cấu tổ chức thống nhất của Quốc hội và là tiền đề để bảo đảm cho Quốc hội phát huy được vai trò của mình. Bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng đối với Quốc hội chẳng những nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội mà còn bảo đảm thực hiện tốt các mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Ba là, phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội là yêu cầu quan trọng tạo thêm sức mạnh và sự năng động, sáng tạo từ hệ thống chính trị của nước ta. Vừa qua, tại các kỳ họp, Quốc hội đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ, trách nhiệm, thảo luận, tranh luận đầy nhiệt huyết và xây dựng. Không ít các cuộc tranh luận, chất vấn tại nghị trường, các cuộc giám sát trong thực tiễn khá gay gắt và sôi nổi với nhiều lý lẽ có sức thuyết phục. Có những vấn đề được quyết định không dễ dàng mà phải cân đi nhắc lại, nâng lên đặt xuống nhiều lần, qua phân tích cọ xát từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh đã làm cho tính chính xác cao hơn, tạo sự đồng thuận tốt hơn, giúp công tác chỉ đạo điều hành thuận lợi và hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống và phù hợp với ý nguyện của đông đảo nhân dân.
Bốn là, chất lượng và hiệu quả thực hiện các chức năng của Quốc hội phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, nhất là các đại biểu Quốc hội chuyên trách. Ðổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban, chuyển trọng tâm hoạt động vào các cơ quan này; tăng cường chất lượng đại biểu Quốc hội có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Muốn vậy, cần có cơ chế, điều kiện để nhân dân lựa chọn được những người tiêu biểu vào Quốc hội; có những quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của Quốc hội; trách nhiệm đại biểu chuyên trách; tăng cường quan hệ phối hợp công tác và bảo đảm các điều kiện hoạt động để phát huy vai trò nòng cốt đối với hoạt động chung của Quốc hội.
Sự đồng thuận, trách nhiệm của tập thể Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ðoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội; sự phối hợp có hiệu quả của Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan, tổ chức hữu quan và sự đóng góp tích cực của cử tri và nhân dân cả nước là yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần giúp Quốc hội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao...
Năm là, gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm bắt đầy đủ, hiểu sâu sắc tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu chính đáng của nhân dân, trân trọng lắng nghe, phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân là nhân tố quan trọng bảo đảm cho Quốc hội có những quyết sách đúng đắn, phù hợp thực tiễn, góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Quốc hội, thu hút được sự quan tâm, ủng hộ, đóng góp ý kiến xây dựng và tăng cường niềm tin của cử tri, của nhân dân đối với Quốc hội.
IV - Một số kiến nghị về phương hướng, nhiệm vụ và tổ chức của Quốc hội trong thời gian tới
Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII sắp kết thúc, nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII sắp bắt đầu và sẽ hoạt động trong bối cảnh đất nước tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng. Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước đặt ra cho toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang, trong đó có nhiệm vụ đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Ðể nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Quốc hội khóa XII kiến nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Quốc hội khóa XIII và các khóa tiếp sau một số vấn đề sau đây:
1. Tiếp tục tăng cường năng lực và nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật. Ðổi mới cách thức xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo hướng xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan, lựa chọn các dự án luật đã có quá trình chuẩn bị tương đối kỹ, có khả năng thực tế để triển khai tiếp các bước trong quy trình. Quán triệt, bám sát chủ trương, đường lối của Ðảng và phân tích, nắm chắc yêu cầu thực tiễn cuộc sống để xác định thứ tự ưu tiên các lĩnh vực, dự án luật trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ. Nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để đến năm 2020 nước ta có đủ các đạo luật cơ bản điều chỉnh các quan hệ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội. Sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và các văn bản pháp luật có liên quan theo hướng xác định rõ phạm vi, đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội; thẩm quyền giám sát của các chủ thể; hình thức, cách thức, trình tự, thủ tục tiến hành giám sát, hậu quả pháp lý sau giám sát. Tiếp tục đổi mới hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bảo đảm phát huy mạnh mẽ dân chủ, tăng tính tranh luận, đi sâu phân tích làm rõ vấn đề. Trong giám sát theo chuyên đề cần chú trọng hơn nữa về chiều sâu và vấn đề hậu giám sát. Tiếp tục mở rộng tổ chức hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; nghiên cứu giao quyền chất vấn cho Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
3. Ðề cao hơn nữa trách nhiệm và nâng cao chất lượng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là các vấn đề về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, tổ chức và nhân sự bộ máy nhà nước, bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Xác định rõ trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban trong công tác thẩm định công trình dự án, đề án. Chú trọng cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác và các điều kiện đảm bảo để Quốc hội xem xét, quyết định.
4. Ðẩy mạnh hoạt động đối ngoại của Quốc hội, góp phần thực hiện có kết quả chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại của Quốc hội. Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo ở tầm chiến lược, dài hạn. Thực hiện tốt công tác điều hòa, phối hợp trong hoạt động đối ngoại, tránh trùng lắp về nội dung, thời gian, địa điểm nghiên cứu của các Ðoàn đi thăm và làm việc ở nước ngoài.
5. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Phát huy vai trò của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội theo hướng nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan này. Nghiên cứu tách một số Ủy ban của Quốc hội có phạm vi, lĩnh vực phụ trách rộng, bảo đảm tính chuyên sâu hơn; nâng cấp một số Ban trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tiến hành rà soát, phân định rõ hơn nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc, một số Ủy ban chuyên môn của Quốc hội nhằm giảm thiểu sự chồng lấn.
6. Tăng cường đại biểu Quốc hội chuyên trách, thành viên chuyên trách các cơ quan của Quốc hội. Có cơ chế thích hợp để đại biểu Quốc hội thực hiện tốt hơn nhiệm vụ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử và nhân dân cả nước. Tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về đại biểu Quốc hội, chú trọng việc hoàn thiện các quy định tiếp xúc cử tri, về điều kiện bảo đảm để đại biểu thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, nhất là đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.
7. Nghiên cứu sửa đổi Quy chế hoạt động của Ðoàn đại biểu Quốc hội theo hướng xác định rõ hơn vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ðoàn đại biểu Quốc hội; quy định và có hướng dẫn cụ thể hơn về mối quan hệ giữa Trưởng Ðoàn, Phó Trưởng Ðoàn với các đại biểu Quốc hội và mối quan hệ giữa Ðoàn đại biểu Quốc hội với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan, đoàn thể ở địa phương.
8. Có quy chế xác định rõ hơn những nội dung cần xin ý kiến chỉ đạo (công tác tổ chức, nhân sự, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...), những vấn đề Ðảng lãnh đạo bằng định hướng chủ trương, đường lối (kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, dự án, công trình...) nhằm phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo, nâng cao trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội. Ðồng thời, có cơ chế để đại biểu Quốc hội tham gia ý kiến, thảo luận kỹ những vấn đề quan trọng trước khi cơ quan có thẩm quyền của Ðảng xem xét, quyết định.
9. Tăng cường phối hợp công tác giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; giữa Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hữu quan trong việc xem xét, quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
10. Củng cố, kiện toàn các cơ quan tham mưu, giúp việc theo hướng tăng tính chuyên nghiệp, tinh thông, ổn định, tránh chồng chéo. Tăng cường năng lực cung cấp thông tin khách quan, chính xác, đa chiều đến đại biểu Quốc hội. Xây dựng đội ngũ tham mưu, giúp việc, tương xứng với tính chất, yêu cầu của công việc thực tế; có cơ chế cụ thể để huy động đội ngũ cộng tác viên, các nhà khoa học, các chuyên gia tham gia đóng góp vào hoạt động của Quốc hội, nhất là trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quyết định vấn đề quan trọng của đất nước.
Trên đây là dự thảo Báo cáo tổng kết hoạt động của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội.
Xin trân trọng cảm ơn.
----------------------------------------
(1) Trong đó có 4 dự án luật dự kiến sẽ thông qua kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XII, bao gồm: Luật Kiểm toán độc lập; Luật Phòng, chống mua bán người; Luật Thủ đô; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.
(2) Việc chấp hành pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; việc thực hiện chính sách pháp luật về công tác xã hội hóa chăm sóc sức khỏe nhân dân; tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm; việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; việc thực hiện chính sách pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học; việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công dân và doanh nghiệp theo chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010.
Theo: nhandan.com.vn