Ngày 21-3, tại phiên khai mạc kỳ họp thứ chín, QH khóa XII, các đại biểu QH đã nghe Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trình bày Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2007-2011 của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc Báo cáo quan trọng này.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhận nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 2007 - 2011 được kế thừa những thành quả to lớn và kinh nghiệm quý báu của hơn 20 năm đổi mới, đặc biệt là những kết quả trực tiếp của nhiệm kỳ 2002 - 2007, đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều diễn biến phức tạp khó lường của tình hình kinh tế - chính trị khu vực và thế giới, nhất là những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Ở trong nước, các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá; thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên diện rộng gây thiệt hại khá nghiêm trọng.
Trong bối cảnh đầy khó khăn thách thức, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng cũng còn nhiều hạn chế yếu kém cả về kết quả thực hiện và trong quản lý điều hành.
Tại các kỳ họp của Quốc hội, Chính phủ đã báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội và kết quả thực hiện nhiệm vụ theo các Nghị quyết của Quốc hội. Chính phủ cũng đã báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2010, nhìn tổng quát lại kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 và kiểm điểm việc triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 2011 qua 3 tháng đầu năm.
Theo Chương trình của kỳ họp này, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được Hiến pháp, pháp luật quy định, thay mặt Chính phủ, tôi xin trình bày với Quốc hội và đồng bào cả nước Báo cáo Công tác nhiệm kỳ 2007 - 2011 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
I. Những tiến bộ và kết quả chủ yếu
1. Tăng cường lãnh đạo chỉ đạo hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trong nhiệm kỳ qua, đã tập trung chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chuyển mạnh sang điều hành phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường. Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 87 luật, pháp lệnh; đã ban hành 567 nghị định và nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa đường lối đổi mới của Ðảng, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Các văn bản pháp luật đã thể hiện bước tiến mới trong tư duy lập pháp, chú trọng tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch của các quy định, xác lập rõ quyền của công dân và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, giảm mạnh sự can thiệp hành chính vào các quan hệ kinh tế, dân sự. Khuôn khổ pháp lý quản lý kinh tế xã hội đã được hoàn thiện hơn, đặc biệt là môi trường kinh doanh ngày càng thông thóang, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy và thu hút nhiều nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển(1).
Thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu, kinh doanh bình đẳng theo cơ chế thị trường, Chính phủ và chính quyền các cấp đã tạo điều kiện, khuyến khích phát triển mạnh kinh tế dân doanh, bao gồm kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác và kinh tế hộ gia đình. Ðã thực hiện đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp và tạo cơ sở pháp lý bảo đảm bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực. Với những giải pháp và chính sách phù hợp, khu vực kinh tế dân doanh đã có bước phát triển mạnh, có tốc độ tăng trưởng cao nhất và trở thành một động lực của nền kinh tế. Trong 5 năm qua, số doanh nghiệp cả nước đã tăng hơn 2 lần, số vốn đăng ký tăng gần 6 lần và có khoảng 4.000 hợp tác xã thành lập mới. Ðến cuối năm 2010, cả nước có 544 nghìn doanh nghiệp đăng ký hoạt động, vượt mục tiêu đề ra từ đầu nhiệm kỳ là 500 nghìn doanh nghiệp. Giai đoạn 2006 - 2010, đầu tư của khu vực dân doanh chiếm 34,8% tổng đầu tư xã hội, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, đóng góp 45% GDP cả nước.
Tiếp tục quá trình đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Ðã đẩy mạnh cổ phần hóa và chuyển toàn bộ 1.200 doanh nghiệp nhà nước còn lại sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa đều hoạt động có hiệu quả. Ðã từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, tách chức năng quản lý hành chính nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp. Quy định rõ hơn về hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra và việc công khai kết quả hoạt động kinh doanh, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với doanh nghiệp nhà nước. Ðã ban hành nhiều quy định để tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Năm năm qua, doanh nghiệp nhà nước, mà nòng cốt là các tập đoàn và tổng công ty đạt mức tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm, đóng góp lớn vào tăng trưởng, xuất khẩu, thu ngân sách, ổn định kinh tế vĩ mô và tham gia tích cực vào bảo đảm an sinh xã hội.
Ðã quan tâm chỉ đạo tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tổng vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm đạt khoảng 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần, tổng vốn thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với mục tiêu đề ra. Các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh. Vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần, giải ngân đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16% so với mục tiêu đề ra.
Chính phủ cũng đã tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp tạo lập và vận hành các loại thị trường. Thị trường hàng hóa, dịch vụ đã có bước phát triển mới với sự tham gia ngày càng nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế. Các dịch vụ tài chính, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm phát triển mạnh, hoạt động sôi động. Thị trường chứng khóan phát triển khá nhanh; tổng vốn hóa thị trường chứng khóan có tổ chức tại thời điểm cuối năm 2010 tương đương 40% GDP; cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện, đang trở thành kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, đánh dấu bước tiến trong vận hành cơ chế thị trường. Thị trường bất động sản có bước phát triển với sự hình thành các sàn giao dịch, khắc phục một phần các giao dịch ngầm. Thị trường lao động có bước phát triển nhanh với việc tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của các sàn giao dịch việc làm, xây dựng hệ thống thông tin thị trường, bước đầu kết nối cung - cầu, nhất là ở các vùng kinh tế trọng điểm.
2. Tập trung lãnh đạo chỉ đạo ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế
Nhiệm kỳ qua, hoạt động quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện trong điều kiện kinh tế - chính trị thế giới biến động hết sức phức tạp, tác động rất mạnh đến nền kinh tế nước ta. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn xác định ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tăng trưởng bền vững. Tinh thần này được quán triệt xuyên suốt trong quản lý, lãnh đạo chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Ðã tập trung chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng theo trọng tâm trong từng thời gian, từ ưu tiên kiềm chế lạm phát cao năm 2008 sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục đà tăng trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô năm 2011. Chính sách tài khóa và điều hành ngân sách nhà nước tiếp tục được hoàn thiện theo hướng bảo đảm thống nhất, minh bạch và công bằng. Chính sách thuế được điều chỉnh, giảm dần và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập, nuôi dưỡng nguồn thu. Vốn đầu tư từ ngân sách được tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng, nông nghiệp, nông thôn và phát triển các lĩnh vực xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Trong điều kiện phải huy động các nguồn lực trong, ngoài nước và phát triển các định chế tài chính nhằm bảo đảm các nhu cầu đầu tư và kinh doanh, Chính phủ luôn quan tâm bảo đảm an ninh tài chính, giữ mức nợ Chính phủ, nợ công, nợ quốc gia trong giới hạn an toàn và bảo đảm hoạt động ổn định của hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại đã giảm so với nhiều năm trước đây.
Ðã chỉ đạo đồng bộ các giải pháp phát triển thương mại trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, giảm nhập siêu, từng bước khắc phục mất cân đối về cán cân thanh toán, góp phần bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế (2).
Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; đã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch đầu tư, tập trung vào những ngành, lĩnh vực có lợi thế, bảo đảm cân đối giữa kế hoạch phát triển và vốn đầu tư, khắc phục dần tình trạng đầu tư dàn trải.
Ðã xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình hành động về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tích cực triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới. Ban hành nhiều cơ chế, chính sách huy động vốn, tăng thêm các chương trình, dự án; Nhà nước tăng đầu tư và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn(3); tạo điều kiện cho hộ nông dân, các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện phải chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp, xây dựng hạ tầng, mở mang đô thị, thiên tai, dịch bệnh lại diễn biến bất thường, ngành nông nghiệp vẫn có bước phát triển nổi bật, giá trị tăng thêm toàn ngành bình quân 5 năm tăng 3,3%/năm, vượt chỉ tiêu đề ra là 3,0 - 3,2%/năm, giá trị sản xuất tăng 4,8%/năm, vượt chỉ tiêu là 4,5%/năm.
Chú trọng chỉ đạo điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp và xây dựng, khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao, ít tiêu tốn năng lượng, thân thiện với môi trường, có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu. Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế thế giới, nhưng từ cuối năm 2009 sản xuất công nghiệp và xây dựng đã từng bước phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng. Năm năm qua giá trị tăng thêm tăng bình quân đạt 7,9%/năm.
Khu vực dịch vụ được khuyến khích phát triển, có tốc độ tăng cao và ổn định hơn so với các thời kỳ trước đây, bình quân hàng năm mức tăng giá trị gia tăng đạt 7,7%.
Ðã chỉ đạo tập trung vào khai thác thế mạnh của từng vùng. Coi trọng đầu tư phát triển các vùng kinh tế động lực, vùng kinh tế ven biển và các khu kinh tế. Tiếp tục phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, quan tâm đầu tư phát triển khu vực miền Trung và thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về phát triển kinh tế biển, gắn phát triển kinh tế biển với việc bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ. Chú trọng phát triển các ngành khai thác và chế biến dầu khí, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển và dịch vụ cảng biển, nuôi trồng, đánh bắt hải sản và du lịch biển.
Ðã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp tích cực nhằm đa dạng hóa và huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng gấp hơn 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, bằng 42,9% GDP; trong đó, vốn trong nước 67%, vốn ngoài nước 33%(4). Nhiều công trình mới đã được xây dựng, hệ thống kết cấu hạ tầng có bước được cải thiện, năng lực sản xuất tăng thêm, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Mặc dù bị tác động nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên đây, giai đoạn 2006 - 2010, tăng trưởng kinh tế nước ta đạt mức khá cao, bình quân đạt khoảng 7%. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD, vượt mục tiêu đề ra. Quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên.
3. Ðặc biệt coi trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu của phát triển bền vững. Ðây là một chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước, được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Cùng với việc tập trung hoàn thiện pháp luật, nhiều cơ chế, chính sách, chương trình, dự án phù hợp đã được triển khai thực hiện. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa và tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển, vừa nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước vừa phát huy tính chủ động sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân theo pháp luật.
Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng đồng thời tiếp tục hoàn thiện mạng lưới giáo dục đào tạo với quy mô hợp lý. Ðổi mới quản lý giáo dục được xác định là khâu đột phá. Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục; quan tâm phát triển và nâng cao trình độ đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Tăng cường trật tự kỷ cương trong thi cử. Ðẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và quản lý, đến nay tất cả các trường phổ thông đã được kết nối Internet. Ðã triển khai đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục theo Nghị quyết của Quốc hội. Thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi, đã cho hơn 2 triệu sinh viên đại học cao đẳng và học sinh học nghề có hoàn cảnh khó khăn vay hơn 26 nghìn tỷ đồng. Triển khai các Ðề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, Phát triển các trường trung học phổ thông chuyên và Nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy ngoại ngữ. Ðã xây dựng mới 106 nghìn phòng học, nâng tỷ lệ kiên cố hóa lớp học từ 51% lên 71%; xây dựng hơn 21 nghìn nhà công vụ cho giáo viên. Ðã chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp mới trong giáo dục đạo đức, lòng yêu nước, văn hóa dân tộc và kỹ năng sống cho học sinh gắn với phong trào thi đua ’xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực’. Chuyển mạnh giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp sang đào tạo theo nhu cầu xã hội và triển khai các chương trình đào tạo theo chuẩn của các nước tiên tiến ở các trường đại học. Giáo dục đào tạo đã có bước phát triển mới cả về quy mô và chất lượng(5).
Thực hiện nhiều chính sách, giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống cơ sở y tế, quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp các bệnh viện, trong đó khoảng 900 bệnh viện đã và đang được triển khai đầu tư theo các Ðề án của Chính phủ. Khuyến khích phát triển các cơ sở y tế ngoài công lập và ứng dụng khám chữa bệnh bằng công nghệ cao. Ðã tăng cường gần 9.000 bác sĩ tuyến trên hỗ trợ tuyến dưới(6). Ðến nay, trên 95% số xã đã có trạm y tế, 80% có bác sĩ, 95% có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi và 90% thôn bản có nhân viên y tế. Coi trọng công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Tăng cường quản lý nhà nước về thuốc chữa bệnh, phát triển y dược cổ truyền. Quan tâm chỉ đạo công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, dân số, kế hoạch hóa gia đình, từng bước nâng cao chất lượng dân số. Ðến năm 2010, ngành y tế đã đạt và vượt các chỉ tiêu trong Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân(7).
Ðẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm gắn với mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo nhu cầu của xã hội. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm mới; hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, doanh nghiệp hoạt động ở những địa bàn có nhu cầu lớn về việc làm. Phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ dạy nghề cho người lao động, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên, người tàn tật. Triển khai thực hiện Ðề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn với quy mô 1 triệu lao động/năm. Trong 5 năm, đã tuyển mới dạy nghề gần 7,8 triệu người; quy mô dạy nghề tăng 43,2% so với giai đoạn 5 năm trước; góp phần giải quyết được trên 8 triệu việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 4,82% năm 2006 xuống 4,43% năm 2010. Cùng với đào tạo đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, đào tạo nghề đã góp phần đạt mục tiêu 40% lao động qua đào tạo.
Xóa đói giảm nghèo là một nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Nhiều chương trình, dự án, chính sách trợ giúp người nghèo, vùng nghèo đã được triển khai thực hiện đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1) tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; (2) hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông, phát triển ngành nghề; (3) phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các địa bàn đặc biệt khó khăn. Công tác xóa đói giảm nghèo đã đạt thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 18,1% năm 2006 xuống còn 9,45% năm 2010, riêng ở 62 huyện nghèo giảm từ trên 50% xuống còn 38%, hoàn thành mục tiêu đề ra.
Nhiều giải pháp và chính sách an sinh xã hội khác được quan tâm chỉ đạo. Tiếp tục thực hiện lộ trình cải cách tiền lương, từ 2006 đến nay đã 5 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng và thực hiện nhiều khoản phụ cấp, trợ cấp liên quan. Phát triển đồng bộ, đa dạng hệ thống bảo hiểm, nhất là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và có chính sách hỗ trợ khuyến khích người dân tích cực tham gia, riêng bảo hiểm y tế đã tăng từ 30% năm 2006 lên trên 60% năm 2010. Ðã có trên 6 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách ưu đãi đối với người có công, hơn 95% gia đình người có công đã có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn. Ðã ban hành nhiều chính sách trợ giúp đối với các đối tượng bảo trợ xã hội, nhân dân vùng bị thiên tai dịch bệnh, xây dựng ký túc xá cho sinh viên, nhà ở cho công nhân khu công nghiệp và người có thu nhập thấp.
Với các chính sách và giải pháp trên đây, việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân là một tiến bộ nổi bật trong nhiệm kỳ, không chỉ thể hiện trong từng kết quả cụ thể mà đã trở thành một quan điểm xuyên suốt, gắn kết chặt chẽ với kế hoạch phát triển, được triển khai thực hiện đồng bộ với nhiều chính sách và nguồn lực. Mặc dù còn nhiều khó khăn về kinh tế nhưng mức chi ngân sách cho an sinh xã hội từ gần 39 nghìn tỷ đồng năm 2006 lên trên 77 nghìn tỷ đồng năm 2010, tăng 98,8%; ngoài ra, còn hỗ trợ 283 nghìn tấn gạo để trợ giúp nhân dân vùng bị thiên tai và cứu đói giáp hạt. Doanh số cho vay ưu đãi thực hiện các chính sách xã hội từ trên 12 nghìn tỷ đồng năm 2006 lên 30 nghìn tỷ đồng năm 2010, tăng 144%.
Quan tâm chỉ đạo phát triển văn hóa, tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao của nhân dân. Tích cực xây dựng môi trường văn hóa, thể chế và thiết chế văn hóa. Quan tâm phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật. Coi trọng bảo tồn, phát huy di sản văn hóa và văn hóa các dân tộc thiểu số, gần 1.200 di tích đã được tu bổ, tôn tạo; đã có nhiều cố gắng để UNESCO công nhận thêm 4, nâng tổng số lên 11 di sản của nước ta là di sản văn hóa thế giới. Ðã tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa quan trọng, trong đó có Ðại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Ðẩy mạnh giao lưu văn hóa với thế giới.
Ðã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện có hiệu quả cuộc vận động ’’Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa’’. Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong việc động viên các tầng lớp nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài tích cực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đóng góp thiết thực vào công cuộc phát triển đất nước. Quan tâm chỉ đạo phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo; chăm lo công tác thanh niên, bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Chỉ đạo đẩy mạnh phát triển thông tin truyền thông theo hướng đa dạng hóa về loại hình và các kênh truyền thông với công nghệ ngày càng hiện đại, vừa mở rộng diện bao phủ và sức lan tỏa, vừa nâng cao chất lượng; bảo đảm thông tin kịp thời chính xác, phục vụ tốt công tác lãnh đạo chỉ đạo điều hành và tuyên truyền đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của nhân dân. Ðã triển khai nhiều đề án, chương trình quan trọng nhằm đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin để sớm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về công nghệ thông tin. Có nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực cho phát triển lĩnh vực này ở những địa bàn khó khăn. Năm năm qua, thông tin và truyền thông đã có bước phát triển khá nhanh, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế(8).
Quan tâm phát triển thể dục, thể thao với nhiều hình thức phong phú. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển sôi động gắn với việc nâng cao thể lực và tầm vóc con người Việt Nam. Thể thao thành tích cao được quan tâm đầu tư và có nhiều mặt tiến bộ(9).
Tập trung chỉ đạo nâng cao tiềm lực và hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với tăng cường đầu tư cho khoa học cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn, đã đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, quan tâm phát triển các khu công nghệ và ứng dụng công nghệ cao; hoàn thiện bộ máy, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế tài chính, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị khoa học công lập và phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đã có hàng nghìn đơn vị và doanh nghiệp đi vào hoạt động(10). Hình thành các quỹ hoạt động khoa học và công nghệ; phát triển thị trường công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới và chuyển giao công nghệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trong 5 năm qua, số lượng các sáng chế của người Việt Nam được đăng ký bảo hộ tăng 2 lần, giá trị các giao dịch mua, bán công nghệ tăng 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Trong nông nghiệp, đã tạo được hơn 142 giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao, trong đó có 100 giống lúa. Khoa học công nghệ đã có đóng góp thiết thực vào tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế(11).
Xác định bảo vệ môi trường là một điều kiện để phát triển bền vững, đã quan tâm chỉ đạo xây dựng thể chế, chính sách và nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, tiếp tục hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, kiện toàn bộ máy tổ chức các cơ quan chuyên trách về môi trường trong cả nước(12). Ðã chỉ đạo hoàn thành việc xử lý ô nhiễm tại 332/439 cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng cần xử lý trong giai đoạn 1. Ðồng thời tích cực thực hiện các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn phát sinh ô nhiễm mới. Tăng cường kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải, nhất là đối với các khu, cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, chất thải y tế, chất thải đô thị. Thực hiện việc thẩm định bảo đảm các yêu cầu về môi trường ngay từ khi phê duyệt quy hoạch, quyết định và triển khai các dự án đầu tư(13). Tăng cường kiểm soát việc nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, hàng hóa, phế liệu. Khuyến khích phát triển các ngành sản xuất kinh doanh tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường. Ðẩy mạnh việc phát triển và bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Là một nước thường xuyên bị ảnh hưởng nặng nề của thiên tai và được dự báo là một trong số ít nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng(14), Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn đặc biệt quan tâm công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm. Ðã ban hành Chiến lược quốc gia phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, đề ra nhiều giải pháp cả trước mắt và lâu dài. Nhiều Bộ ngành và địa phương đã xây dựng kế hoạch hành động. Thực hiện phương châm ’4 tại chỗ’ trong phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Huy động các nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế nhằm nâng cao khả năng và hiệu quả phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, thích nghi và ứng phó tích cực với biến đổi khí hậu, hạn chế thấp nhất thiệt hại.
Kết quả phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ qua đã góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Năm 2010, thu nhập của dân cư tăng 35% so với năm 2006 (đã loại trừ yếu tố giá). Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng lên, thuộc nhóm nước trung bình của thế giới. Nước ta đã đạt và vượt trước thời hạn 5/8 mục tiêu thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015, được quốc tế đánh giá cao.
4. Tăng cường lãnh đạo chỉ đạo cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước và đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính và nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt nhiệm kỳ.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường, đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Ðã hoàn tất việc rà soát và đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước (15), thực hiện công khai, minh bạch chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, tạo chuyển biến tốt trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp.
Ðã lãnh đạo, chỉ đạo việc sắp xếp, giảm đầu mối cơ cấu của Chính phủ theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; đồng thời, điều chỉnh cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện (16). Đã hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ và quy chế làm việc của Chính phủ, của từng Bộ. Tính thống nhất, hiệu lực hiệu quả trong quản lý của Chính phủ, của các Bộ và cả hệ thống hành chính được nâng lên. Thực hiện nghiêm túc việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường tại một số tỉnh, thành phố và việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được quan tâm chỉ đạo. Ðã thực hiện nhiều quy định mới về tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá công chức; phân cấp đào tạo, bồi dưỡng công chức; tiếp tục thực hiện công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ và lộ trình cải cách tiền lương. Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật Viên chức nhằm đổi mới quản lý, giúp viên chức hoạt động chủ động và hiệu quả hơn, đồng thời tạo điều kiện để tăng lương khu vực công chức và làm tinh gọn bộ máy công quyền.
Theo hướng từng bước hiện đại hóa nền hành chính nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử, đã chỉ đạo nhiều giải pháp quản lý mới, triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cải tiến chế độ hội họp và giảm bớt giấy tờ hành chính, bước đầu đạt những kết quả tích cực.
Tiếp tục nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Ðã thực hiện việc rà soát, hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý, gắn với bảo đảm quy hoạch, cơ cấu kinh tế và sự quản lý thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp dưới; gắn phân cấp với tăng cường kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý phát triển theo quy hoạch. Chỉ đạo thanh tra, kiểm tra có trọng tâm trọng điểm, theo chuyên đề và thanh tra công vụ.
Thực hiện nghiêm túc công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ðã tập trung hoàn thiện thể chế quản lý và kiện toàn các cơ quan chuyên trách ở cả trung ương, địa phương. Ban hành các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng. Chú trọng công tác phòng ngừa, phát hiện các hành vi tham nhũng. Chỉ đạo việc kiểm tra, đôn đốc và phối hợp giữa các cơ quan liên quan để đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố và đưa ra xét xử nhiều vụ tham nhũng mà dư luận quan tâm. Phát huy vai trò của nhân dân, của báo chí trong việc giám sát, phát hiện và đấu tranh với tham nhũng, lãng phí. Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng; Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
Ðã quan tâm chỉ đạo công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực chi ngân sách, đầu tư xây dựng, sử dụng đất đai, tài sản công, tài nguyên và thực hiện cơ chế khoán chi hành chính.
5. Chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các hoạt động đối ngoại của Ðảng, Chủ tịch nước, Quốc hội và đối ngoại nhân dân để quản lý điều hành tốt hơn các hoạt động đối ngoại trên cả ba trụ cột: ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Trong ngoại giao đa phương, đã tập trung chỉ đạo đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009; tham gia tích cực và có trách nhiệm vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực như an ninh hạt nhân, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững; đề xuất nhiều sáng kiến thiết thực trên các diễn đàn đa phương, các tổ chức quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN, Phong trào không liên kết, Cấp cao Ðông Á (EAS), Diễn đàn Kinh tế thế giới, Diễn đàn kinh tế Ðông Á, G20, Ủy hội quốc tế sông Mê Kông và hợp tác tiểu vùng Mê Kông. Ðã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, đạt được tối đa những mục tiêu đề ra với các kết quả quan trọng, có ý nghĩa rất thiết thực đối với nước ta cũng như với ASEAN và khu vực. Những kết quả nổi bật trong ngoại giao đa phương, đặc biệt là các Hội nghị Cấp cao ASEAN 16, 17, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị các Bộ trưởng ASEAN về các trụ cột kinh tế, văn hóa và xã hội... được dư luận quốc tế và trong nước đánh giá cao, góp phần tăng cường quan hệ đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia và nhận được sự ủng hộ của nhiều đối tác lớn, nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam.
Củng cố và mở rộng quan hệ với các nước láng giềng, các nước đối tác quan trọng. Ðã nâng cấp quan hệ lên tầm đối tác chiến lược với 7 nước (17); mở rộng hợp tác với các nước bạn bè truyền thống; thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 8 nước, nâng số quốc gia có quan hệ ngoại giao với nước ta lên 179 trong tổng số 192 nước trên thế giới. Chỉ đạo đấu tranh có hiệu quả trong vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Chủ động đối thoại với các nước, xử lý phù hợp các vấn đề nảy sinh, kiên quyết đấu tranh với các hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của ta, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia. Tiếp tục đối thoại ngoại giao với Tòa thánh Va-ti-căng trên tinh thần thiện chí và tôn trọng Hiến pháp, pháp luật Việt Nam.
Về công tác biên giới lãnh thổ, đã phối hợp chỉ đạo hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên bộ và ký kết ba văn kiện về biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc; giải quyết dứt điểm các tồn đọng, triển khai tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc giới Việt Nam - Lào; triển khai phân giới cắm mốc biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Phối hợp các hoạt động ngoại giao ở nhiều cấp khác nhau cả song phương và đa phương để khẳng định mạnh mẽ và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Trong ngoại giao kinh tế, một hướng chỉ đạo quan trọng của Chính phủ là đưa nền kinh tế nước ta hội nhập đầy đủ và hiệu quả hơn vào kinh tế thế giới. Việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một dấu mốc mới rất quan trọng, nâng tầm hội nhập lên cấp độ toàn cầu. Khẩn trương thiết lập các khuôn khổ pháp lý cho công tác hội nhập, Chính phủ đã có Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO; định kỳ đánh giá việc thực hiện các cam kết và tác động của hội nhập để có giải pháp điều hành phù hợp. Chỉ đạo đàm phán và ký kết các thỏa thuận về hợp tác kinh tế ASEAN; các Hiệp định đối tác với Nhật Bản (EPA), với EU (PCA); khởi động đàm phán Hiệp định Thương mại tự do với EU (FTA) và Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP). Chỉ đạo đấu tranh xử lý phù hợp các tranh chấp thương mại với các nước và khu vực; đẩy mạnh công tác vận động quốc tế công nhận nền kinh tế thị trường cho Việt Nam(18). Ðã chú trọng công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh đàm phán, ký kết thỏa thuận hợp tác thương mại, mở ra nhiều thị trường mới; cải thiện môi trường đầu tư và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài; vận động ODA có trọng tâm, trọng điểm. Ðến nay, nước ta đã có quan hệ kinh tế, thương mại với trên 170 nước và 60 vùng lãnh thổ; 92 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam. Nước ta cũng đã có 560 dự án đầu tư tại 55 nước và vùng lãnh thổ.
Ðã chỉ đạo có kết quả công tác ngoại giao văn hóa, đẩy mạnh quảng bá hình ảnh và xây dựng thương hiệu quốc gia, ứng cử vào vị trí Ủy viên Hội đồng chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2009 - 2013 và việc vận động UNESCO công nhận nhiều di sản văn hóa thế giới của Việt Nam. Ðã ban hành Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020.
Ðặc biệt quan tâm và chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp để bảo vệ quyền lợi của đồng bào ta đang sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài. Ðã thực hiện nhiều chính sách mới như việc giải quyết vấn đề quốc tịch, miễn thị thực khi về nước, được mua nhà ở tại Việt Nam, khuyến khích về nước đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào ta gắn bó với quê hương, đất nước. Ðã kịp thời chỉ đạo đưa toàn bộ lao động của Việt Nam từ Li Bi về nước an toàn và có hỗ trợ thiết thực để những lao động này vượt qua khó khăn.
6. Tăng cường quốc phòng, an ninh; bảo đảm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội
Ðã tăng cường chỉ đạo tiếp tục thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược an ninh quốc gia và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc xây dựng và củng cố quốc phòng, an ninh.
Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng tin cậy của Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng vẫn dành sự quan tâm đầu tư để hiện đại hóa quân đội, công an và phát triển công nghiệp quốc phòng, xây dựng các khu vực phòng thủ. Quan tâm đầu tư, chăm lo đời sống và tăng cường khả năng phòng thủ của quân dân huyện đảo Trường Sa.
Thường xuyên chỉ đạo xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Lãnh đạo chỉ đạo các lực lượng vũ trang làm tốt vai trò tham mưu, góp phần chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu ’diễn biến hòa bình’, hoạt động gây rối, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; làm vô hiệu ý đồ hình thành các tổ chức chính trị phản động; chỉ đạo đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm nguy hiểm, tội phạm có tổ chức, có yếu tố nước ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Ðã bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện lớn của đất nước. Lực lượng vũ trang thực sự là nòng cốt trong cứu hộ, cứu nạn, phòng chống thiên tai, bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Tăng cường các hoạt động đối ngoại quốc phòng, đối ngoại an ninh, gắn kết chặt chẽ quốc phòng - an ninh - đối ngoại để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia. Chỉ đạo tăng cường kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng gắn với việc nâng cao đời sống của nhân dân ở các vùng khó khăn. Phát triển công nghiệp quốc phòng gắn kết với công nghiệp quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm chỉ đạo. Cùng với việc tích cực hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và coi trọng giải quyết khiếu nại tố cáo từ cơ sở, việc phối hợp tốt hơn giữa các cấp, các ngành và tăng cường đối thoại với người khiếu nại, tố cáo đã góp phần xử lý dứt điểm nhiều vụ việc, trong đó có những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài. Ðã chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp tích cực thực hiện Luật Giao thông đường bộ và Chiến lược bảo đảm trật tự an toàn giao thông, kiềm chế số vụ tai nạn, số người chết và bị thương.
II. Những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những tiến bộ và kết quả đạt được, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiêm túc nhìn nhận về những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, lãnh đạo chỉ đạo điều hành.
1. Việc xây dựng hệ thống pháp luật và thể chế vẫn còn bất cập
Công tác xây dựng pháp luật và hoàn thiện thể chế chính sách vẫn còn lúng túng, chưa bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất. Cơ chế chính sách trong một số lĩnh vực, nhất là trong quản lý đất đai, tạo lập môi trường kinh doanh và xã hội hóa một số dịch vụ công cộng còn nhiều hạn chế. Quản lý giá một số hàng hóa và dịch vụ chưa thực hiện đầy đủ theo cơ chế thị trường, còn trở ngại cho đầu tư kinh doanh và ổn định kinh tế vĩ mô.
Các loại thị trường hình thành còn chậm và chưa đồng bộ. Các định chế tài chính, nhất là ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm chưa đủ mạnh và còn tiềm ẩn rủi ro. Thị trường bất động sản còn nhiều vướng mắc. Thị trường tiền tệ, thị trường vàng chưa được quản lý tốt. Thị trường khoa học, công nghệ còn nhỏ bé. Thị trường lao động chưa bảo đảm tốt việc kết nối cung - cầu, giải quyết việc làm.
Còn nhiều hạn chế trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Việc thực hiện quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn lúng túng, bất cập; chất lượng giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa đạt yêu cầu. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
2. Hiệu quả quản lý điều hành chưa cao, kinh tế phát triển chưa bền vững
Quản lý điều hành kinh tế vĩ mô chưa thật hiệu quả, còn những hạn chế, yếu kém. Còn lúng túng trong bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Nhập siêu, bội chi ngân sách, lạm phát còn cao. Việc phối hợp chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ, giải quyết mối quan hệ giữa ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng có lúc chưa thật phù hợp.
Quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao. Công tác quy hoạch, kế hoạch còn bất cập, chất lượng thấp. Cơ chế, chính sách quản lý tài nguyên, khoáng sản và vốn có mặt chưa phù hợp, chưa khuyến khích sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả cao các nguồn lực này. Công tác dự báo còn yếu, phản ứng chính sách chưa thật linh hoạt. Việc đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chỉ đạo phát triển công nghiệp hỗ trợ còn chậm. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển chưa bền vững.
3. Văn hóa, xã hội còn nhiều mặt bất cập, một số vấn đề bức xúc giải quyết còn chậm
Mạng lưới và quy mô giáo dục đào tạo ở một số vùng, cấp học, bậc học còn chưa hợp lý. Ở những địa bàn khó khăn, tỷ lệ học sinh đến lớp và chất lượng giáo dục còn thấp. Giáo dục mầm non ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Còn tình trạng vi phạm đạo đức học đường, gây bức xúc trong xã hội. Ðào tạo nhân lực vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tới 60%.
Chất lượng khám chữa bệnh ở nhiều nơi còn thấp; tình trạng quá tải ở nhiều bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến Trung ương khắc phục còn chậm. Chính sách viện phí có mặt chưa phù hợp. Công tác xã hội hóa triển khai chậm, thu hút đầu tư trong khám chữa bệnh còn hạn chế(19). Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được bảo đảm tốt. Công nghiệp dược phát triển chậm. Quản lý giá thuốc còn bất cập. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả chưa thật vững chắc, mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng lớn.
Kết quả xóa đói giảm nghèo chưa vững chắc. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo ở các địa bàn khó khăn còn cao; tình trạng tái nghèo ở một số nơi còn lớn. Phát triển nhà ở cho công nhân khu công nghiệp, các đối tượng thu nhập thấp và ký túc xá cho học sinh sinh viên còn chậm.
Chưa có chính sách đủ mạnh để tăng nhanh tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia, nhất là đối với những lĩnh vực trọng điểm, then chốt. Việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ vào phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế; chưa có nhiều đóng góp mang tính đột phá trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.
Việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường chưa nghiêm. Kết quả bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm đối với một số khu vực trọng điểm còn hạn chế. Việc xử lý các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng còn chậm. Chất lượng thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường còn thấp. Chưa có chính sách phù hợp để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào bảo vệ và cải thiện môi trường, ứng dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường. Hiệu quả ngăn chặn tình trạng phá rừng, cháy rừng chưa cao.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, thông tin và truyền thông nhiều mặt còn yếu kém. Chưa bảo đảm sự đồng bộ giữa xây dựng đời sống, lối sống, môi trường văn hóa và các thiết chế văn hóa. Kết quả bảo đảm thông tin cho các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo còn hạn chế.
4. Lãnh đạo chỉ đạo cải cách hành chính, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu
Một số chủ trương lớn về cải cách hành chính được đề ra khá sớm như đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công, giảm biên chế, giảm cấp phó, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức... nhưng kết quả thực hiện chưa cao.
Năng lực xây dựng thể chế và tổ chức thực thi pháp luật còn yếu, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Thủ tục hành chính vẫn còn phiền hà. Việc phân cấp chưa đi đôi với hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường kiểm tra, giám sát. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa sâu sát và quyết liệt, có lúc còn bị động; xử lý sau thanh tra một số vụ việc còn chậm.
Tổ chức bộ máy một số cơ quan nhà nước chưa đạt yêu cầu tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Hệ thống hành chính và đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Chưa có những biện pháp thật kiên quyết và có hiệu quả để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu. Chưa khắc phục được những nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng, lãng phí, nhất là những bất cập trong hệ thống thể chế quản lý kinh tế, công tác tổ chức cán bộ và chính sách tiền lương. Nhiều vụ việc đã được phát hiện nhưng điều tra, xử lý còn chậm.
5. Công tác đối ngoại có mặt chưa chủ động, hội nhập quốc tế hiệu quả chưa cao
Việc nghiên cứu, dự báo chiến lược còn hạn chế. Sự kết hợp giữa chính trị, kinh tế và văn hóa trong hoạt động đối ngoại, giữa thông tin đối ngoại và thông tin trong nước chưa thật chặt chẽ và đồng bộ.
Chưa kịp thời hoàn thiện Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Còn thiếu chủ động trong đàm phán các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) với từng đối tác. Chưa tận dụng tốt các cơ hội do hội nhập mang lại và chưa có các đối sách thật sự hữu hiệu để ứng phó với các tác động trái chiều của hội nhập đến nền kinh tế. Chậm xây dựng hàng rào kỹ thuật đáp ứng yêu cầu kiểm soát nhập khẩu và bảo vệ sản xuất trong nước.
Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hiệu quả còn thấp; chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư vào công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, các ngành sản xuất giá trị gia tăng cao và tiêu hao ít năng lượng. Trong ngoại giao văn hóa, chưa có sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả các hoạt động quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Việc triển khai thực hiện chính sách đối với đồng bào ta ở nước ngoài còn chậm, thủ tục có mặt còn vướng mắc. Chưa phát huy được nhiều tiềm năng của người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào công cuộc phát triển đất nước.
6. Hiệu quả công tác quốc phòng, an ninh có mặt còn hạn chế; trật tự, an toàn xã hội chuyển biến còn chậm
Việc gắn kết giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh chưa thật chặt chẽ. Công nghiệp quốc phòng phát triển còn chậm. Công tác bảo đảm an ninh, xử lý tình hình phức tạp có lúc còn bị động. Hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm còn hạn chế; an ninh trật tự ở một số địa bàn chưa tốt.
Công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, đình công, tranh chấp lao động còn những bất cập, thiếu chính sách và giải pháp xử lý phù hợp. Trật tự an toàn giao thông chuyển biến chậm. Chưa có giải pháp khắc phục hữu hiệu tình trạng tai nạn và ùn tắc giao thông, nhất là ở các thành phố lớn. Việc đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, mại dâm kết quả chưa cao.
Nhìn tổng quát nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh nhiều khó khăn và thách thức, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ðã cơ bản ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước đang phát triển có thu nhập thấp, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và công tác an sinh xã hội có nhiều tiến bộ. Bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng. Ðời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí có những chuyển biến tích cực. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế đạt nhiều kết quả nổi bật. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển đất nước. Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp; kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng bộ và còn nhiều vướng mắc. Ðào tạo nguồn nhân lực và phát triển khoa học công nghệ còn chậm. Bảo vệ tài nguyên, môi trường còn nhiều bất cập. Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và chăm sóc sức khoẻ nhân dân có mặt kết quả chưa cao. Cải cách hành chính, bảo đảm trật tự kỷ cương, phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu. Quốc phòng, an ninh và công tác đối ngoại có mặt còn hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu. Công tác quản lý, điều hành trên nhiều lĩnh vực còn bất cập. Sự phối hợp giữa các cơ quan, giữa trung ương và địa phương hiệu quả chưa cao. Tổ chức thực hiện chưa thật tốt, chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những khâu đột phá, then chốt và những vấn đề xã hội bức xúc. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xin nghiêm túc nhận trách nhiệm về những hạn chế, yếu kém trong nhiệm kỳ.
III. Một số bài học kinh nghiệm
Nhiệm kỳ 2007 - 2011 là một nhiệm kỳ có rất nhiều khó khăn, thách thức. Qua những kết quả và hạn chế trong quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội, có thể rút ra những bài học quan trọng sau đây:
1. Phải bám sát chức năng nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới của Ðảng, tất cả vì lợi ích của đất nước, của nhân dân
Bám sát chức năng nhiệm vụ và quán triệt sâu sắc, thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới của Ðảng là cơ sở để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chủ động đề ra những chính sách và giải pháp điều hành linh hoạt, phù hợp. Quán triệt đường lối không chỉ là quán triệt những nội dung trong văn bản mà còn phải có tinh thần sáng tạo vì lợi ích của đất nước, của nhân dân. Ðây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ cũng như tính đúng đắn của các giải pháp chính sách và là sự bảo đảm chính trị cho mọi quyết định. Thiếu tinh thần đó sẽ không thể chủ động xử lý kịp thời, đúng đắn các vấn đề nảy sinh của đất nước trong một thế giới vận động phức tạp và biến đổi không ngừng, dẫn đến tình trạng dựa dẫm, trông chờ, làm mất thời cơ, không đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Chính các giải pháp sáng tạo phù hợp với thực tiễn, vì lợi ích của đất nước, của nhân dân lại góp phần hoàn thiện chủ trương đường lối của Ðảng.
2. Phải kiên trì thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng, trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô mà bảo đảm tăng trưởng bền vững
Chính sách quản lý và các biện pháp điều hành phải bảo đảm những yêu cầu nêu trên. Thực tiễn nhiệm kỳ qua cho thấy, nếu không kiên trì, nhất quán thực hiện các yêu cầu đó, sẽ làm hạn chế hiệu quả của các giải pháp và nảy sinh những khó khăn mới. Ðể ổn định kinh tế vĩ mô, phải bảo đảm tính đồng bộ giữa các chính sách, kết hợp hài hòa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, giữa yêu cầu cấp bách với mục tiêu lâu dài. Trong khi giải quyết mục tiêu trước mắt, phải kiên trì tạo lập các tiền đề, điều kiện cho phát triển nhanh và bền vững trong dài hạn của đất nước.
3. Phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức thực hiện, hành động quyết liệt với tinh thần trách nhiệm cao; đồng thời huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, bảo đảm sự đồng thuận trong toàn xã hội để thực hiện mục tiêu
Xác định mục tiêu và các giải pháp thực hiện đúng mới là tiền đề nhưng để tạo nên thành quả phát triển phải thông qua tổ chức thực hiện, đưa chủ trương chính sách vào cuộc sống. Trong điều kiện có rất nhiều khó khăn phức tạp như nhiệm kỳ qua với bao yếu tố tác động bất thường đến quá trình triển khai nhiệm vụ lại càng phải coi trọng khâu tổ chức thực hiện. Phải bám sát sự vận động của hiện thực đời sống, coi trọng công tác dự báo và cập nhật thông tin, điều chỉnh kịp thời các giải pháp khi tình hình đòi hỏi nhằm tận dụng thời cơ mới xuất hiện, khắc phục những khó khăn mới nảy sinh. Chỉ với tinh thần trách nhiệm cao, hành động khẩn trương và quyết liệt, tổ chức thực hiện đồng bộ, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo được sự đồng thuận trong toàn xã hội, hành động cùng một hướng theo mục tiêu đã xác định thì mới đạt được kết quả cao trong quản lý điều hành.
4. Phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc, tạo sự đoàn kết thống nhất, chung sức đồng lòng vượt qua thách thức khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta, cũng là bài học lớn trong hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Phải phát huy tinh thần làm việc dân chủ, tập thể trong việc chuẩn bị các quyết định, coi trọng phản biện xã hội, lắng nghe ý kiến của các tầng lớp nhân dân, các chuyên gia trong và ngoài nước. Nhưng mặt khác, tình hình càng phức tạp càng dễ có những nhận định và đánh giá khác nhau. Vì vậy, dân chủ phải đi liền với tập trung, đề cao trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc lựa chọn và quyết định các giải pháp chính sách trên cơ sở tuân thủ quy chế làm việc để nhanh chóng đưa ra các quyết định, tránh tình trạng do dự, làm mất phương hướng hành động. Mở rộng dân chủ phải đi liền với tăng cường kỷ luật kỷ cương. Ðây cũng chính là cơ sở để xây dựng khối đoàn kết thống nhất nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và các mục tiêu đã đề ra.
Thưa Quốc hội,
Từ thực tiễn công tác nhiệm kỳ 2007 - 2011, Chính phủ xin có một số kiến nghị sau:
Khẩn trương thể chế hóa các chủ trương, đường lối vừa được thông qua tại Ðại hội lần thứ XI của Ðảng thành các quy định pháp luật, phù hợp với tình hình mới, tạo cơ sở pháp lý để Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở... như Hiến pháp quy định, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền dân chủ của công dân và tăng cường pháp chế, kỷ luật kỷ cương; trên cơ sở đó sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, làm rõ trách nhiệm, quyền hạn và nguyên tắc tổ chức hệ thống hành chính nhà nước các cấp, bảo đảm cho Chính phủ thực hiện tốt vai trò là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch vững mạnh, hiệu lực hiệu quả.
Tiếp tục thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường và thực hiện thí điểm nhân dân trực tiếp bầu chủ tịch Ủy ban nhân dân xã nhằm phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa X.
Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với Chính phủ theo hướng thiết thực, hiệu quả; xác định rõ cơ chế giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ để vừa phát huy vai trò của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, vừa tạo điều kiện cho Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đã chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cần hành động khẩn trương, ứng phó kịp thời, đề nghị Quốc hội nghiên cứu hoàn thiện các quy định về việc thực hiện quyền của Quốc hội trong quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định một số công việc cần thiết, cấp bách. Mặt khác, các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng cần được điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với biến động của tình hình; đề nghị Quốc hội giao cho Chính phủ chịu trách nhiệm chủ động điều chỉnh một số chỉ tiêu cụ thể và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng chí, đồng bào,
Trong nhiệm kỳ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn nghiêm túc thực thi Hiến pháp, pháp luật; nghiêm túc chấp hành các Nghị quyết của Ðảng, Nghị quyết của Quốc hội; luôn đoàn kết thống nhất, nỗ lực phấn đấu làm việc hết sức mình để hoàn thành chức năng nhiệm vụ được giao và đã có những đóng góp tích cực vào thành tựu chung của đất nước.
Thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng cảm ơn sự lãnh đạo của Trung ương Ðảng. Xin trân trọng cảm ơn Chủ tịch nước, Quốc hội, các cơ quan Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các Ðoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và đồng bào ta cả trong nước, ngoài nước đã giám sát, hợp tác và ủng hộ rất thiết thực, giúp Chính phủ thực thi có hiệu quả trọng trách của mình.
Xin trân trọng cảm ơn Chính phủ, nhân dân các nước, các tổ chức quốc tế và bạn bè trên thế giới về tình hữu nghị, sự hợp tác và giúp đỡ quý báu đã dành cho Chính phủ và nhân dân Việt Nam.
Ðất nước ta đang đứng trước yêu cầu rất cấp thiết là phải đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và phải phát triển nhanh - bền vững trong bối cảnh đầy biến động, rất khó lường với những thời cơ thuận lợi cũng như khó khăn thách thức đều lớn. Phải hành động quyết liệt với tinh thần trách nhiệm cao nhất để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phải kết hợp chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Tình hình kinh tế - chính trị thế giới đang diễn biến rất phức tạp, nhiệm vụ chủ yếu nhất hiện nay của nước ta là phải tập trung mọi nỗ lực để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và phấn đấu hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ của năm 2011.
Chúng ta hy vọng và tin tưởng rằng Chính phủ nhiệm kỳ 2011 - 2015 sẽ phát huy những tiến bộ và kết quả đã đạt được, khắc phục nhanh các mặt còn yếu kém, bất cập của Chính phủ nhiệm kỳ qua, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý điều hành, phát huy tinh thần sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng - tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xin trân trọng cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách và đồng chí, đồng bào.
-----------------------------
(1) Năm 2010, Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam là một trong 10 nền kinh tế cải cách tốt nhất, đứng thứ 78/183 quốc gia, tăng 10 bậc về môi trường đầu tư kinh doanh so với năm 2009.
(2) Nhập siêu năm 2007 là 29%, năm 2008 là 28,8%, 2009 là 22,6%, 2010 là 17,27%.
(3) Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn so với tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ tăng từ 43,3% năm 2008 lên 48,1% năm 2010. Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, tổng vốn ngân sách và trái phiếu Chính phủ đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đã tăng, gấp 1,46 lần so với giai đoạn 2004 - 2008.
(4) Vốn ngân sách nhà nước chiếm 21,2%; vốn trái phiếu Chính phủ chiếm 5,3%; vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước và tín dụng chính sách chiếm 6,5%; vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm 9,6%; vốn của doanh nghiệp tư nhân và dân cư chiếm 36,1%.
(5) Giáo dục mầm non tăng gần 1.000 trường, phổ thông tăng hơn 1.000 trường, đại học, cao đẳng tăng 92 trường. Quy mô học sinh mẫu giáo tăng 17%, trung cấp chuyên nghiệp tăng 45,4%, cao đẳng tăng 92,5%, đại học tăng 29,5%. Ðã hoàn thành chỉ tiêu phổ cập trung học cơ sở trong cả nước và tỷ lệ 200 sinh viên/1 vạn dân; nâng cao và duy trì được tỷ lệ biết chữ người lớn ở mức 97,8%; tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông tăng từ 80,44% năm 2007 lên 92,57% năm 2010. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông được tiếp tục học đại học, cao đẳng tăng từ 30% lên 55%. Ðã triển khai 35 chương trình đào tạo đại học theo chuẩn của các nước tiên tiến.
(6) Theo Ðề án 1816, đã chuyển giao trên 4.200 kỹ thuật và khám chữa bệnh cho trên 4,5 triệu lượt người, thực hiện gần 17 nghìn ca phẫu thuật, trong đó 90% kỹ thuật tuyến trung ương chuyển giao đã được tuyến tỉnh tự thực hiện tốt.
(7) Chỉ tiêu tuổi thọ trung bình đề ra trong Chiến lược là 71 tuổi và thực hiện là 73; tương tự Mức giảm sinh là 0,2%o và 0,2%o; Tỷ lệ tử vong mẹ/10 vạn trẻ đẻ sống là 70 và 68; Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 25%o và 15,8%o; Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi là 32%o và 23,5%o; Tỷ lệ trẻ đẻ ra có trọng lượng dưới 2.500g là 6% và 5,1%; Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là 20% và 17,8%; Số Bác sĩ/1 vạn dân là 7 và 7; Dược sĩ/1 vạn dân là 1 và 1; Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ 90% và 90%; Tỷ lệ xã có nữ hộ sinh (hoặc y sĩ sản nhi) là 95% và 95%; Số giường bệnh/1 vạn dân (bao gồm cả giường trạm y tế xã) là 27,5 và 27,5; Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia hiện hành về y tế là 80% và 80%.
(8) Tính đến cuối năm 2010, cả nước có 163 triệu máy điện thoại cố định và di động, 99,65% số xã có điện thoại cố định; 88% số xã có in-tơ-nét và hơn 31% dân số sử dụng in-tơ-nét; có 728 cơ quan báo in với hơn 900 ấn phẩm, gần 95% số xã có báo đọc trong ngày; có 67 đài phát thanh, truyền hình với 200 kênh truyền hình, diện tích phủ sóng đạt trên 90% lãnh thổ, trên 90% hộ gia đình có máy thu hình. Cả nước có 34 báo điện tử và tạp chí điện tử, 66 trang tin điện tử tổng hợp. Năm 2010 phát hành được 342,5 triệu bản sách.
(9) Tại các kỳ SEA Games gần đây, luôn giữ vị trí là một trong ba nước đứng đầu. Tại Ðại hội thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3 năm 2009, giành vị trí thứ 2 toàn đoàn.
(10) Riêng trong 2 năm 2009 - 2010 đã có trên 300 doanh nghiệp khoa học công nghệ được thành lập mới.
(11) Ứng dụng khoa học và công nghệ trong các ngành sản xuất, chế tạo giai đoạn 2006 - 2009 đã góp phần mang lại giá trị gia tăng khoảng 62 tỷ USD, tăng gần 60% so với giai đoạn 2001 - 2005 (theo số liệu Ngân hàng Thế giới công bố tháng 12 năm 2010). Việc nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ đã đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng trong nông nghiệp (Theo báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc).
(12) Ðã thành lập Tổng cục Môi trường, Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường, 672/674 quận, huyện đã có phòng quản lý chuyên trách về lĩnh vực này.
(13) Ðã có 60 dự án chiến lược, quy hoạch, 7.000 dự án đầu tư được đánh giá tác động môi trường.
(14) Thống kê 52 năm qua, mỗi năm bình quân có 7 - 8 cơn bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta. Năm năm gần đây mỗi năm thiên tai làm chết trên 500 người, gây thiệt hại về kinh tế 14,5 nghìn tỷ đồng, tương đương 1,2% GDP cả nước. Theo dự báo kịch bản biến đổi khí hậu, nếu nước biển dâng 1 m thì đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập khoảng 38% diện tích, đồng bằng sông Hồng ngập 11%, thành phố Hồ Chí Minh ngập 23%. Khoảng 10 - 12% dân số nước ta sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP cả nước.
(15) Ðã đơn giản hóa gần 5.000 thủ tục thuộc chức năng quản lý của 24 Bộ, ngành; công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính tại 4 cấp chính quyền và công khai trên mạng in-tơ-nét trên 5.700 thủ tục, hơn 9.000 văn bản quy định và 100.000 biểu mẫu thống kê thủ tục hành chính.
(16) So với nhiệm kỳ trước, số Bộ, cơ quan ngang Bộ giảm từ 26 xuống còn 22; số cơ quan chuyên môn cấp tỉnh từ 22-24 giảm xuống còn 17 đến 20, cơ quan chuyên môn cấp huyện từ 14 - 18 giảm xuống còn 10 - 14.
(17) Ðã nâng cấp quan hệ lên tầm đối tác chiến lược với Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh và Tây Ban Nha; nâng cấp quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc; tăng cường quan hệ truyền thống và đối tác chiến lược với Nga.
(18) Ðã có 25 nước, trong đó 8 nước thuộc nhóm G20 công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường.
(19) Số giường bệnh khu vực bệnh viện tư mới chỉ chiếm 3,8% tổng số giường bệnh.
Theo: nhandan.com.vn