Đó là cuốn sách “Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa ra mắt bạn đọc trong tháng 6/2024.
Đây là cuốn sách khổ rộng gồm gần 850 trang, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành. Cuốn sách tuyển chọn 95 bài viết, bài phát biểu và trả lời phỏng vấn của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Quốc hội Việt Nam; tuyển chọn hơn 100 bức ảnh tư liệu quý và 57 ý kiến tiêu biểu của các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đại biểu Quốc hội, Nhân dân và bạn bè quốc tế về các nội dung trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Nội dung gồm ba phần:
Phần thứ nhất: gồm 15 bài đề cập vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phần thứ hai: gồm 90 bài đề cập việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, chế độ làm việc để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong các hoạt động của Quốc hội Việt Nam.
Phần thứ ba: tuyển chọn từ 57 ý kiến của các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đại biểu Quốc hội, cán bộ và Nhân dân trong nước cũng như bạn bè quốc tế, thể hiện tình cảm, sự tin tưởng, đồng thuận đối với các vấn đề trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Người viết bài này không có điều kiện đi sâu phân tích đầy đủ nội dung 3 phần lớn trong cuốn sách, mà chỉ xin nêu mấy cảm nhận cơ bản qua một số vấn đề cốt lõi được đề cập trong cuốn sách này.
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương và các đại biểu tham quan gian trưng bày tại Lễ ra mắt cuốn sách “Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. |
Bám sát và cụ thể hóa sinh động Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, làm sáng rõ vấn đề “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
Đây là một trong những nội dung cực kỳ quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện và đồng bộ của Đảng ta được triển khai từ Đại hội VI năm 1986 đến nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã song hành đổi mới từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng; đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính trị; trong đổi mới chính trị, chúng ta tập trung đổi mới, hoàn thiện nội dung, phương thức hoạt động của Nhà nước cũng như hệ thống chính trị sao cho các hoạt động đó ngày càng có hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Ngay từ khi còn công tác ở Tạp chí Cộng sản, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã được Bộ Chính trị từ khóa VII cử làm thành viên Tiểu ban văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc; Khi được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII bầu vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cùng với nhiệm vụ phụ trách công tác tư tưởng, văn hóa, khoa giáo của Đảng, sau đó làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, đồng chí gánh vác thêm nhiệm vụ là Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương và làm Thường trực Tiểu ban văn kiện các khóa Đại hội. Ba nhiệm kỳ qua, trên cương vị là Tổng Bí thư của Đảng và với trọng trách là Trưởng Tiểu ban văn kiện Đại hội, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp chỉ đạo quá trình nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn quá trình đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chính vì vậy, những bài viết trong cuốn sách này, nhất là vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang tính khái quát sâu sắc bởi hàm lượng lý luận cao cùng với sự nhanh nhạy nắm bắt bản chất thực tiễn, sự diễn đạt khúc chiết, mạch lạc các vấn đề lý luận được kết hợp nhuần nhuyễn với thực tiễn, nên đã tạo ra sức thuyết phục cao qua các bài viết. Cần nói thêm rằng, đồng chí Tổng Bí thư là người đã tham gia nhiều khóa Quốc hội, đặc biệt trong hai nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI và khóa XII, đồng chí được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; và trên cương vị ấy, đồng chí càng có điều kiện suy ngẫm, đúc kết những kinh nghiệm rất sát thực các hoạt động của Nhà nước, trong đó có Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân; cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Việt Nam.
Trong nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tôi chú ý mấy nhận định liên quan đến nội dung lớn nêu trong cuốn sách này: “Công cuộc đổi mới và tình hình quốc tế tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn”. Trong phần chỉ ra các yếu kém, bất cập của các nhiệm kỳ trước đó, Nghị quyết có ghi: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới” [1] .
Trong cuốn sách này, khi đề cập nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tôi tâm đắc cách phân tích, lý giải về một vấn đề hệ trọng, khó và phức tạp, vừa cần coi trọng những kinh nghiệm tốt của thế giới, vừa hết sức chú ý phát hiện những điểm khác biệt riêng có ở nước ta để đề ra cách thức tiến hành phù hợp, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Theo hướng đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã điểm lại khái quát quá trình phát triển tư duy lý luận về nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nước ta. Đồng chí Tổng Bí thư đã lý giải, phân tích có hệ thống về mặt lý luận: Lần đầu tiên, thuật ngữ “Xây dựng nhà nước pháp quyền” được đề cập tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (năm 1991). Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[2]. Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực xây dựng được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Chính sách, pháp luật, cơ cấu tổ chức nhà nước được nhân dân góp ý, xây dựng; nhân dân giám sát các hoạt động của Nhà nước.
Mối quan hệ giữa Nhà nước quản lý với Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ được thể hiện rất rõ trong 5 quan điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền là: 1/ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 2/ Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân; 3/ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; 4/ Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước; 5/ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đến Đại hội X, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, rõ ràng hơn, sâu sắc hơn, khi khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân” [3]. Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước” [4] . Đồng thời đã xác định xã hội chúng ta đang xây dựng là “do Nhân dân làm chủ”, chứ không chỉ là “Nhân dân lao động làm chủ”.
Đại hội X cũng đã chỉ rõ các hình thức để Nhân dân làm chủ: thực hiện các cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định; làm chủ thông qua các cơ quan dân cử, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp; làm chủ trực tiếp ở cơ sở, bằng các hình thức Nhân dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở phối hợp với luật pháp của Nhà nước, tạo điều kiện để Nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia” [5].
Như vậy, qua các kỳ đại hội, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ đã ngày càng được cụ thể hóa. Tuy nhiên, trong thực tế còn không ít vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức vận hành của bộ máy nhà nước và quy định cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân còn bất cập, cần được tiếp tục làm rõ. Theo hướng đó, nhiều bài viết quan trọng trong cuốn sách này đã góp sức tháo gỡ các vướng mắc nêu trên, chỉ rõ những việc cần tiếp tục làm để thật sự có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, nay là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (người ngồi bên phải), thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân Đặng Bích Hà (5/1/2011). Ảnh: Tư liệu THQHVN. |
Khẳng định những thành tựu to lớn trong 70 năm hoạt động của Quốc hội Việt Nam - cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946-2016)
Ngày 6/1/2016, trong Diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (6/1/1946-6/1/2016), với tiêu đề “Quốc hội là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bằng tầm cao chiến lược và chiều sâu tư duy lý luận; trên cơ sở theo dõi và nắm chắc thực tiễn hoạt động của Quốc hội các khóa, đã khái quát 5 thành tựu nổi bật của Quốc hội trong quá trình ra đời, phát triển và trưởng thành. Cụ thể là:
Thứ nhất, sự ra đời của Quốc hội là thành quả đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quá trình hình thành và sự ra đời của Quốc hội là kết tinh của sự lựa chọn đúng đắn, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với những giá trị phổ quát của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân và quy luật phát triển của lịch sử. Qua 12 nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội là quá trình tích lũy tri thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, được cụ thể hóa từng bước, với những việc làm cụ thể, kịp thời, từ thấp đến cao, phù hợp với diễn biến và yêu cầu của mỗi giai đoạn.
Thứ hai, Quốc hội luôn luôn là hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc. Quốc hội của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thể hiện tính đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, gắn bó mật thiết với Nhân dân. Thứ ba, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước, luôn được khẳng định một cách nhất quán và xuyên suốt trong cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, được thể hiện hóa trong các bản Hiến pháp của nước ta.
Thứ ba, sự phát triển của Quốc hội là một quá trình liên tục kế thừa, không ngừng đổi mới và hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng.
Thứ tư, bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành xuất sắc trọng trách mà Nhân dân ủy thác. Quốc hội luôn nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối, quan điểm và các chủ trương của Đảng vào các hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định vấn đề quan trọng của đất nước, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân làng Kon Rờ Bàng, xã Vinh Quang (thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum). |
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới, đồng chí Tổng Bí thư cũng tập trung nhấn mạnh các nhiệm vụ trọng tâm cần được đẩy mạnh, như: tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả hoạt động để đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của đất nước trong giai đoạn mới; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của hiến pháp và pháp luật, kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của Nhân dân. Đẩy mạnh hoạt động lập pháp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Tăng cường năng lực, đổi mới quy trình lập pháp, nâng cao tính chủ động trong hoạt động lập pháp. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, tập trung giám sát những vấn đề lớn, bức xúc trong đời sống kinh tế-xã hội. Tăng cường giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn, giải trình tại Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và giám sát việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát. Nâng cao chất lượng quyết định các văn bản quan trọng của đất nước theo hướng thực chất hơn, đảm bảo lợi ích quốc gia, phù hợp ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, nhất là việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, về tài chính, ngân sách nhà nước, về tổ chức bộ máy nhà nước, dự án công trình quan trọng quốc gia. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, cụ thể hóa chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tranh thủ những điều kiện thuận lợi để triển khai hoạt động ngoại giao nghị viện, góp phần thực hiện thành công đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và Nhà nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm, tặng quà gia đình thương binh tỉnh Gia Lai. |
Làm sáng tỏ hơn cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ
Đây là vấn đề đã được đề cập từ các Đại hội trước, nhưng đó đây trong nhận thức cũng như tổ chức thực hiện còn có cách hiểu và vận dụng khác nhau. Tôi đồng tình cao với bài “Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” được đặt ở vị trí đầu tiên trong cuốn sách, trong đó mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, được tác giả dành nhiều trang để phân tích, luận giải sâu sắc. Theo đồng chí Tổng Bí thư thì mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Đề cập sự khác nhau về chất giữa Nhà nước pháp quyền ở ta với Nhà nước pháp quyền tư sản, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với Nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: các quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, đảm bảo và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân thông qua thực thi pháp luật. Nhà nước đảm bảo các điều kiện để Nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hoạt động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân. Đồng thời chúng ta xác định: đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.
Từ cách đặt vấn đề như vậy, đồng chí Tổng Bí thư phân tích, chỉ rõ nội hàm của từng nhân tố cụ thể:
a. Nhân dân làm chủ như thế nào? Theo đồng chí Tổng Bí thư, Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước đều từ Nhân dân và vì Nhân dân.
Người dân không chỉ thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các đại biểu do mình bầu ra, mà họ còn tự mình thực hiện những quyền đó. Người dân còn tự thành lập ra các tổ chức, các hội đoàn theo quy định của pháp luật để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của mình. Cũng thông qua các tổ chức của mình, người dân sẽ thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, xem bộ máy đó có thực hiện đúng những “cam kết” đã thỏa thuận với Nhân dân hay không. Như vậy, điều cần nhấn mạnh ở đây là, người dân thực hiện quyền làm chủ của mình không chỉ thông qua bộ máy nhà nước, mà họ còn tự mình thực hiện quyền ấy trên cơ sở các tiêu chí, yêu cầu mà luật pháp đã quy định. Bất kỳ ai lợi dụng quyền làm chủ của Nhân dân để chống đối, làm trái pháp luật, đều phải bị xử lý. Hoạt động lãnh đạo, quản lý cũng phải theo quy định pháp luật; nếu cơ quan tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật trong thi hành công vụ, người dân có quyền phản đối hoặc khiếu kiện theo luật định.
b. Đảng lãnh đạo theo phương thức nào?
Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách, chủ trương lớn. Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng, chủ trương lớn này của Đảng cần được sự đồng thuận của Nhân dân. Nhân dân có quyền và nghĩa vụ tham gia góp ý vào nội dung dự thảo các văn bản, văn kiện của Đảng trước khi ban hành.
Đảng lãnh đạo thông qua việc giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình để Nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, khi người dân nhận thấy cương lĩnh, đường lối của Đảng là đáng tin cậy, có thể đem lại lợi ích cho bản thân mình và cho toàn xã hội, thì chắc chắn họ sẽ bỏ phiếu cho những ứng cử viên là người của Đảng và sẽ tự giác hơn trong việc chấp hành các chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu phải thông qua Nhà nước, chứ không phải lấy lãnh đạo với tư cách là một chủ thể độc lập đứng bên ngoài hay đứng trên Nhà nước, bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà nước; phù hợp với sự phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng. Đảng phải phát huy vai trò và trách nhiệm cá nhân của từng đảng viên ưu tú của Đảng, được Nhân dân tín nhiệm bầu, Nhân dân chính thức giao quyền.
Đảng lãnh đạo Nhân dân bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và chứng minh cho Nhân dân thấy tính đúng đắn và tính khoa học trong đường lối, quyết sách của mình. Sự chứng minh ấy không có gì khác hơn là thông qua các nghiên cứu, thử nghiệm, phản biện và tranh luận rộng rãi ở cả trong và ngoài Đảng. Đảng tăng cường công tác tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
c. Nhà nước quản lý bằng cách nào?
Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, để có thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, Nhà nước tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm “lao động” quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, hiệu quả. Trong một xã hội dân chủ thì Nhà nước phải là người bảo vệ quyền công dân, quyền con người. Mức độ dân chủ của một xã hội có thể được đo lường bằng số lượng những quyền công dân, quyền con người và một công dân bình thường được thực hiện trên thực tế.
Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ rằng, Đảng và Nhà nước không có lợi ích tự thân, sứ mệnh của Đảng và Nhà nước là phục vụ Nhân dân; cán bộ, công chức là công bộc của Nhân dân. Do vậy, phải luôn luôn nhận thức và đặt Nhân dân vào trung tâm của mối quan hệ này; sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều xuất phát từ nhu cầu dân chủ của người dân, phục vụ lợi ích của Nhân dân và là những bảo đảm quan trọng để Nhân dân thật sự là chủ và thật sự làm chủ.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại Lễ hội Đền Hùng_Ảnh : Tư liệu |
Sự đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế đối với các vấn đề nêu trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Trong cuốn sách này, Nhà xuất bản tuyển chọn 57 ý kiến của các tầng lớp nhân dân ở trong nước và nước ngoài cùng bạn bè quốc tế. Tôi mạn phép trích ra đây một số ý kiến mà tôi rất tâm đắc:
“Anh Trọng là nhà lý luận sắc bén của Đảng ta. Anh là nhà cộng sản chân chính, chí tình, chí nghĩa. Tính cách thì nhân hậu, nhưng quyết liệt, không khoan nhượng trong công cuộc chỉnh đốn Đảng để Đảng ta ngày càng trong sạch hơn, xứng đáng “là công bộc, là đầy tớ trung thành của Nhân dân” như Hồ Chủ tịch từng khẳng định”. (Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Từ cậu trò nghèo đến nhà lãnh đạo vì nước, vì dân”, viettimes.vn, ngày 29/01/2016).
“Chúng tôi được may mắn, vinh dự và tự hào vì đã thay mặt Nhân dân lựa chọn được một người xứng đáng. Chúng tôi cũng cảm thấy hết sức tin tưởng, kỳ vọng khi đất nước đã tìm ra được một người tài giỏi, có năng lực, đạo đức để lãnh đạo đất nước. Tất cả những cơ sở đó làm chúng ta có niềm tin sâu sắc rằng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình mà Nhân dân, Đảng đã giao phó”. (Giáo sư Nguyễn Anh Trí, đại biểu Quốc hội khóa XIV, XV: “Một cuộc bầu cử đặc biệt vừa hợp ý Đảng, lòng dân”, tuoitre.vn, ngày 23/10/2018).
“Tôi thấy, về phương pháp làm việc và điều hành thì Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng có kỹ năng cầm trịch, bao quát được diễn biến của Quốc hội, để kỳ họp diễn ra có chừng mực, không quá đơn điệu, nhưng cũng không quá gay gắt”. (Ông Nguyễn Đình Xuân, đại biểu Quốc hội khóa XII: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - một con người bình dị, vtc.vn, ngày 19/01/2011).
“Là người có nhiều đổi mới mạnh mẽ, những việc làm của Tổng Bí thư đều được dân yêu, dân thương và dân mến. Vì thế, tình hình đất nước được ổn định, đời sống nhân dân phát triển. Để có được những thành tựu này là nhờ có những đóng góp lớn trong sự lãnh đạo chỉ đạo cụ thể qua việc đưa ra những chủ trương, chính sách đúng đắn cho sự phát triển của đất nước. Nhân dân vùng sâu, vùng xa được sự quan tâm kịp thời cũng như sự chỉ đạo sâu sắc từ những chủ trương, chính sách việc làm cụ thể, điển hình như các chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới... Nhờ đó bộ mặt nông thôn nước ta có nhiều chuyển biến rõ nét. Trong đó có thể kể đến đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa ngày càng được quan tâm hơn”. (Ông Y Luyện Niê Kdăm, đại biểu Quốc hội khóa X, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk).
“Hiện nay, Việt Nam đang phát triển với tốc độ nhanh hơn, trên thực tế đã chứng minh tính hiệu quả của các tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhân dân Việt Nam luôn mạnh mẽ, nhạy bén, chăm chỉ và có tinh thần tập thể cao; đất nước Việt Nam có lịch sử lâu đời hàng ngàn năm và tôi chắc chắn rằng, một tương lai tươi sáng đang chờ đón Việt Nam. Việc bác bỏ những giáo điều lạc hậu, thực hiện những cách tiếp cận và tư tưởng mới được thể hiện trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ là lời giải đáp cho những vướng mắc về xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại mà Việt Nam đang gặp phải”. (S.M. Mironov, Chủ tịch Đảng Nước Nga công bằng - Những người yêu nước - Vì sự thật: “Bài viết cho thấy rõ sự cần thiết phải xây dựng một hệ thống chính trị trong đó quyền lực thực sự thuộc về nhân dân”, nhandan.vn, ngày 13/9/2021).
“Là một người Braxin đã lựa chọn gia nhập hàng ngũ những người cộng sản, lựa chọn Đảng Cộng sản Braxin (PCdoB) từ khi mới 18 tuổi (năm 1972), tôi đánh giá cao cuộc đấu tranh cách mạng chống thực dân ở Việt Nam; luôn ngưỡng mộ, khâm phục lòng dũng cảm, sự cần cù của Nhân dân Việt Nam. Tấm gương sáng chói của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi khắc sâu trong tâm trí các thế hệ Nhân dân Braxin. Chúng tôi đã nhiều lần ăn mừng những thắng lợi của Nhân dân Việt Nam trước thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, khi thống nhất đất nước và lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chúng tôi rất phấn khởi chứng kiến những thành tựu vĩ đại của Nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu. Xin chúc đồng chí tiếp tục gặt hái thêm nhiều thành công mới…”. (Walter Sorrentino, Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Braxin (PCdoB), Trưởng ban Đối ngoại PCdoB, Chủ tịch Quỹ Maurício Grabois: “Những thành tựu to lớn của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhandan.vn, ngày 06/9/2021).
Trên đây là mấy cảm nhận ban đầu của tôi chung quanh một số vấn đề cốt lõi đặt ra từ cuốn sách của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu lãnh đạo Đảng ta hiện nay; đồng thời là một trong những nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà báo… xuất sắc. Tôi cho rằng, nếu các cơ quan chức năng tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc những nội dung quan trọng của cuốn sách này (và cả các cuốn sách trước đó), tổ chức tuyên truyền có bài bản để lan tỏa sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tôi tin rằng sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội cao về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đó chính là động lực tinh thần to lớn, điểm tựa đề ra các giải pháp đồng bộ, đột phá, góp sức tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tạo tiền đề quan trọng chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng thành công, biến mục tiêu xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc sớm thành hiện thực./.
PGS.TS. NGUYỄN HỒNG VINH
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng,
Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H., tr. 320-321.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.53, tr.224.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.219.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.84-85
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.69, tr.453.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin