Chúng tôi đến nhà ông Tạ Quang Tám (SN 1931), phường Thống Nhất (thành phố Nam Định) đúng lúc gia đình đang làm giỗ cho 4 người anh trai của ông cùng hy sinh trong một trận càn. Ngoài 90 tuổi, sức khỏe ông đã yếu nhiều, ánh mắt ông Tám buồn xa thẳm, ngấn nước khi nghĩ đến những người anh em đã hy sinh. Gia đình ông có 7 người tham gia quân ngũ thì có tới 5 liệt sĩ, 1 thương binh. Cảm động trước sự hy sinh, đóng góp lớn lao của gia đình ông Tám, Bác Hồ đã gửi áo lụa vàng cùng bức thư đề tặng: “Một nhà trung hiếu, muôn thuở thơm danh”.
Một góc Thành Nam. Ảnh: Huy Hòa |
Một nhà trung hiếu
Căn nhà nhỏ, yên tĩnh của vợ chồng ông Tám hôm nay nhộn nhịp hơn ngày thường. Những người con của ông đang chuẩn bị cỗ để cúng giỗ cho các bác. Ông Tám nặng nề ngồi dậy dưới sự giúp đỡ của người con gái thứ hai. Câu chuyện của chúng tôi với ông thỉnh thoảng còn bị ngắt quãng vì chị phải làm “phiên dịch” cho bố, ghé vào tai ông nói thật to. 16 tuổi, như những người anh, em trai khác, ông Tám xung phong vào bộ đội, làm liên lạc tại Đại đội 11, Trung đoàn 34 Tất Thắng. “Cũng chính vì làm liên lạc nên tôi… thoát chết”, ông Tám nghẹn ngào. Câu chuyện của ông tiếp tục đưa chúng tôi về với những ký ức hào hùng nhưng không kém phần bi thương của gia đình. Cha ông Tám, cụ Tạ Quang Yên (SN 1890) là người gốc Huế, một nhà hoạt động cách mạng ưu tú thời kháng chiến chống Pháp và tham gia vào Hội Liên Việt ngay từ những ngày đầu sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Mẹ ông, cụ Nguyễn Thị Nuôi hoạt động trong Hội Phụ nữ cứu quốc. Sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng, ngọn lửa, tinh thần ấy nhanh chóng nhen nhóm trong trái tim những người con trong gia đình. Vì vậy, khi chứng kiến đất nước lâm nguy, giặc giã, sau khi lớn các anh, em của ông Tám đều tình nguyện theo cha mẹ hoạt động cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, những người con trai của cụ Yên và cụ Nuôi đều hăng hái nhập ngũ. Người anh cả của ông Tám là Tạ Quang Trường tham gia cách mạng trong phong trào công nhân của Nhà máy Dệt Nam Định từ trước Cách mạng Tháng Tám. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Trường xung phong lên đường vào Nam chiến đấu. Bốn người anh của ông Tám là Tạ Quang Khả, Tạ Quang Hồng, Tạ Quang Thuấn, Tạ Quang Đức đều là chiến sĩ của Trung đoàn 34 Tất Thắng. Đầu năm 1946, trong khí thế tích cực, khẩn trương sẵn sàng mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ bảo vệ quê hương, để chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu bảo vệ Thành Nam, cả 4 người anh của ông Tám đã được Trung đoàn 34 cử về xây dựng trung đội tự vệ khu 4 (khu phố Hồ Văn Mịch), khu phố nơi gia đình ông sinh sống. Những ngày đầu trung đội tự vệ khu phố Hồ Văn Mịch chỉ có các anh của ông Tám là “hạt nhân” nòng cốt. Để phát triển lực lượng, các ông đã đi vận động nhân dân, trong đó chủ yếu là công nhân vận tải, khuân vác ở khu vực bến tàu thủy Nam Định tham gia; dưới sự hướng dẫn của Trung đội trưởng Tạ Quang Khả, các anh em tự vệ khu 4 ngày đêm chăm chỉ tập luyện, sắm sửa vũ khí, nung nấu quyết tâm cùng các lực lượng sẵn sàng “xung trận”.
Tháng 3-1947, trong một trận càn của địch vào thành phố Nam Định, quân địch bao vây thành phố suốt 86 ngày đêm. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt, dưới sự chỉ huy của Trung đội trưởng Tạ Quang Khả, hai bên giành nhau từng mét đất. Tuy nhiên do lực lượng mỏng lại trang bị vũ khí thô sơ nên cuối cùng cả 4 anh em và 7 chiến sĩ tự vệ đã anh dũng hy sinh cùng một ngày. Lúc 4 người anh hy sinh, đồng đội không dám báo tin cho ông Tám, sợ ông suy sụp, mãi đến mấy ngày sau ông mới biết tin. Trong thời gian tham gia cách mạng, bản thân ông Tám đã 2 lần bị địch bắt và tra tấn dã man trong xà lim. Ông đã từng bị nhốt trong nhà tù Côn Đảo. Sau này, trong một chương trình trao trả tù binh, ông mới được thả ra ngoài. Hoạt động cách mạng thời gian dài, lại tham gia nhiều trận đánh ác liệt, ông Tám nhiều lần bị thương, hiện trong người vẫn còn mảnh đạn. Năm 1965, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta vào giai đoạn ác liệt, mặc dù bị thương, ông Tám đã khai tỷ lệ thương tật thấp xuống để tiếp tục nhập ngũ, tham gia chiến đấu. Người em trai sau này của ông Tám làm nhiệm vụ ở Sư đoàn pháo cao xạ, ông Tạ Quang Mười trong một trận đánh ác liệt ở Vĩnh Linh, Quảng Trị năm 1972 cũng đã anh dũng hy sinh.
Năm 1948, nhân Ngày Quốc khánh 2-9, biết tin gia đình có 4 người con trai hy sinh trong một trận đánh, Bác Hồ đã tặng một áo lụa và gửi thư khen tới cụ Tạ Quang Yên (cụ thân sinh của ông Tám). Lễ đón nhận được diễn ra ở thôn Ngọc Tỉnh (nay thuộc huyện Xuân Trường). Trong bức thư gửi gia đình cụ Tạ Quang Yên, Bác Hồ viết: “Kính gửi cụ Tạ Quang Yên ở Nam Định: Tôi rất cảm động được báo cáo rằng cụ có 8 người con trong đó 6 người tham gia kháng chiến, mà bốn người đã oanh liệt hy sinh vì Tổ quốc. Tôi trân trọng thay mặt Chính phủ gửi lời khen ngợi và tặng cụ mấy chữ: “Một nhà trung hiếu, muôn thuở thơm danh”. Nhân dịp này tôi xin biếu cụ một chiếc áo mà đồng bào đã biếu tôi. Chúc cụ mạnh khỏe và sống lâu”.
Gìn giữ kỷ vật vô giá
Nội dung bức thư Bác Hồ gửi tặng gia đình ông Tạ Quang Tám được thêu lại. |
Tấm áo lụa và bức thư Bác Hồ gửi khen, gia đình ông Tám coi đó là kỷ vật vô giá, gìn giữ như một phần “máu thịt”. Ngày gia đình ông được vinh dự về thôn Ngọc Tỉnh đón nhận quà và thư của Bác Hồ, ông vẫn đang đi làm nhiệm vụ. Trong buổi lễ mít tinh tuyên dương các Anh hùng Liệt sĩ được Tỉnh Đội Nam Định tổ chức năm 1947, bức thư và tấm áo lụa Bác Hồ tặng được rước trang trọng và được cán bộ tỉnh trao cho gia đình ông. Tấm áo lụa cổ cao màu vàng, 5 tà, trước đó là quà của nhân dân tặng Bác Hồ. Bên ngực phải có thêu chữ: “Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Kim Sơn, Ninh Bình”, ngực trái có ghi dòng chữ "Hồ Chủ tịch tặng" kèm theo chữ ký của Bác. Gia đình ông trân trọng và coi món quà như một “báu vật”. Cụ Tạ Quang Yên chỉ mặc áo vào những dịp trang trọng nhất. Ngày quân đội Pháp đánh chiếm Thái Bình và Nam Định, cả gia đình tìm mọi cách để cất giấu tấm áo. Mặc cho lũ tay sai gián điệp tìm mọi cách để săn lùng áo, gia đình ông vẫn quyết tâm bảo vệ bằng được kỷ vật vô giá. Mẹ ông đã xé phăng chiếc chăn bông để nhét áo vào giữa rồi khâu kín lại. Chuyển nhà đi đâu, bà cũng mang theo, giữ bên người không rời. Cứ vậy, chiếc áo lụa Bác Hồ tặng nằm trong lõi chiếc chăn đã sưởi ấm cho gia đình ông qua bao mùa đông giá lạnh, hiểm nguy. Sau này, ghi nhận những hy sinh đóng góp của gia đình, cụ Nguyễn Thị Nuôi cũng được tặng danh hiệu "Bà mẹ Nam Hà". Năm 1994, cụ được Nhà nước truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”.
Năm 1956, Tỉnh Đội Nam Định đã mượn chiếc áo Bác tặng gia đình ông Tám đem đi triển lãm ở một số nơi và sau đó chuyển về cho Bảo tàng tỉnh. Lúc đầu, ông Tám cũng có ý định giữ kỷ vật đó cho riêng gia đình. Tuy nhiên, sau đó ông quyết định dành tặng cho Bảo tàng để đông đảo người dân được chiêm ngưỡng kỷ vật quý. Bởi đó không chỉ là một tấm áo lụa đơn thuần mà còn là “nhân chứng sống” cho sự hy sinh lớn lao của bao thế hệ, gia đình người Việt Nam cho công cuộc giải phóng đất nước. Áo lụa gia đình giữ được nhưng bức thư của Bác gửi thì không may mắn như vậy. Thời gian gia đình ông Tám sơ tán ở Thái Bình, cha ông đã cho thư vào một tuýp thuốc rồi chôn tại chợ Gốc (Thái Bình) để quân địch không tìm thấy được. Sau chiến tranh, gia đình ông Tám cũng đã nhiều lần về chợ Gốc tìm, tuy nhiên do chợ có lần bị cháy nên có thể bức thư đã bị huỷ. Thư không còn nhưng những lời Bác Hồ viết trong thư, cả gia đình ông đều nằm lòng nhớ ghi. Gia đình ông Tám cũng đã nhờ người thêu lại nội dung bức thư trên một tấm lụa đỏ treo ngay ngắn ở vị trí trang trọng nhất trong nhà.
Tiếp nối truyền thống cách mạng của gia đình, sau khi về địa phương, ông Tám tích cực tham gia các hoạt động xã hội, đóng góp công sức để xây dựng quê hương. Ông từng làm Bí thư, miền trưởng miền Đông Thanh, nay là khu dân cư số 1, phường Thống Nhất (thành phố Nam Định). Ông cũng từng đảm nhiệm trọng trách Trưởng ban công tác Mặt trận của khu dân cư. Với lòng nhiệt tình, trách nhiệm của ông, phong trào ở khu phố dần đi vào nền nếp và trở thành một trong những đơn vị dẫn đầu của phường. Những người con trai, con gái, cháu chắt của ông Tám đều hăng say lao động, làm việc, cống hiến trí tuệ, sức lực xây dựng quê hương. Cả nhà luôn tự dặn nhau, gìn giữ nếp nhà, sống xứng đáng với sự hy sinh anh dũng của người đi trước, với lời khen tặng của Bác Hồ: “Một nhà trung hiếu” để “Muôn thuở thơm danh”./.
Hoa Xuân
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin