Năm 2018, diện tích nuôi trồng thủy sản trong tỉnh phát triển tương đối đồng đều ở cả vùng nước ngọt và nước mặn lợ. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất tiếp tục được Trung ương, UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng đáp ứng yêu cầu phát triển của các vùng nuôi thủy sản. Đối tượng nuôi chính tại vùng nước ngọt vẫn là các con nuôi truyền thống như cá trắm, trôi, mè, chép và một số con nuôi có giá trị kinh tế cao như: cá diêu hồng, cá lóc bông, cá lăng, cá chép giòn, ếch, ba ba. Ngoài ra, trong năm 2018, một số đối tượng nuôi mới được nhân rộng diện tích như: lươn, cá chạch sụn, đã mở ra những hướng đi mới cho nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Nuôi mặn lợ phát triển tốt, không có bệnh dịch nghiêm trọng xảy ra. Các đối tượng nuôi chủ yếu là tôm nước lợ (tôm sú, tôm thẻ chân trắng), ngao, cua biển, cá bống bớp, cá song... Có 16.150ha diện tích mặt nước đã được đưa vào nuôi thủy sản (trong đó nuôi nước ngọt là 9.715ha, nuôi mặn lợ 6.415ha), tăng 624ha so với năm 2017. Sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 98.210 tấn, tăng 8,1% so với năm 2017. Trong đó, sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt ước đạt 48.530 tấn; sản lượng nuôi trồng thủy sản nước mặn lợ ước đạt 49.680 tấn. Toàn tỉnh có 137 cơ sở sản xuất và cung ứng giống thủy sản với 22 cơ sở sản xuất giống nước ngọt, 115 cơ sở sản xuất giống mặn lợ. Năm 2018 các cơ sở đã sản xuất được 9.995 triệu con giống; trong đó, giống thuỷ sản nước ngọt là 880 triệu con, giống thuỷ sản mặn lợ là 9.115 triệu con.
Cải tạo ao đầm chuẩn bị vào vụ sản xuất thủy sản năm 2019 tại trang trại nuôi tôm thẻ chân trắng của anh Hoàng Đức Thiện, xã Hải Triều (Hải Hậu). |
Cơ cấu nghề và công suất tàu khai thác thủy sản có những bước chuyển biến rõ rệt trong năm 2018 theo chủ trương khuyến khích phát triển khai thác thủy sản của Trung ương và của tỉnh; trong đó, đội tàu cá vỏ thép đóng mới theo Nghị định 67/NĐ-CP/2014 đi vào hoạt động đem lại hiệu quả kinh tế. Các nghề khai thác hải sản có tính chọn lọc thấp được hạn chế và chuyển dần qua phát triển các nghề có tính chọn lọc và hiệu quả kinh tế cao, có khả năng vươn khơi xa như nghề lưới rê, nghề chụp mực... Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tập trung chỉ đạo, tuyên truyền, hướng dẫn ngư dân chuẩn bị các điều kiện cần thiết, khi thời tiết thuận lợi, tổ chức các chuyến đi biển, khai thác theo tổ đội và giữ liên lạc với các cơ quan chức năng khi xảy ra sự cố trên biển. Thông qua các kênh liên lạc và tuyên truyền khác nhau để hướng dẫn, dự báo ngư trường... giúp ngư dân yên tâm sản xuất đạt hiệu quả cao. Tính đến ngày 31-12-2018 toàn tỉnh có 2.135 tàu cá, tổng công suất 301.306CV với 6.021 lao động. Sản lượng khai thác thủy sản năm 2018 đạt 51.380 tấn, tăng 9,1% so với năm 2017. Trong đó, khai thác biển đạt 49.460 tấn, khai thác nội đồng đạt 2.326 tấn. Toàn tỉnh có 12 cơ sở đóng tàu cá vỏ thép và 4 cơ sở đóng mới, nâng cấp tàu cá vỏ gỗ đủ điều kiện tham gia theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP, công suất đóng mới của mỗi cơ sở từ 10-30 tàu cá/năm; có 110 cơ sở kinh doanh ngư cụ và 23 cơ sở cung cấp dịch vụ hậu cần nước đá, xăng, dầu; 153 cơ sở chế biến thủy sản, trong đó có 10 cơ sở quy mô lớn với mạng lưới hoạt động rộng khắp, đáp ứng đáng kể nhu cầu của hoạt động nghề cá hiện nay. Nhìn chung năm 2018, sản xuất thủy sản của tỉnh tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, sức cạnh tranh cao phù hợp với hệ sinh thái, khai thác tối đa lợi thế của địa phương; nâng cao năng lực khai thác xa bờ. Tổng sản lượng thủy sản cả năm ước đạt 149.590 tấn, tăng 8,1% (tương đương 11.220 tấn) so với năm 2017; tổng giá trị ngành kinh tế thủy sản năm 2018 của tỉnh ta ước đạt gần 4.007 tỷ đồng, tăng 5,5% so với năm trước.
Tuy nhiên, kinh tế thủy sản năm 2018 tỉnh ta vẫn chưa chủ động hoàn toàn nguồn giống một số đối tượng nuôi chủ lực, có giá trị kinh tế cao (tôm thẻ chân trắng, cá song, cá trắm đen); chưa hình thành được nhiều chuỗi liên kết thủy sản, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất. Công tác kiểm tra, kiểm soát điều kiện sản xuất, kinh doanh vật tư thủy sản phục vụ nuôi trồng thủy sản chưa triệt để, kịp thời. Hệ thống thủy lợi tại một số vùng nuôi chưa được cải tạo triệt để, còn chung với hệ thống phục vụ sản xuất nông nghiệp và muối nên việc điều tiết nước cho nuôi thủy sản gặp khó khăn. Sản lượng và giá trị khai thác thủy sản đều tăng so với những năm trước, song cơ cấu sản phẩm chưa phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thủy sản, nhóm sản phẩm có giá trị kinh tế cao chiếm tỷ lệ thấp; ngư trường khai thác hạn chế, chủ yếu là khu vực Vịnh Bắc Bộ. Còn tình trạng một số tàu cá đã hết hạn đăng kiểm, giấy phép khai thác thủy sản hết hiệu lực nhưng vẫn hoạt động khai thác; một số chủ tàu tự ý nâng cấp tàu cá khi chưa có văn bản chấp thuận của các cơ quan chức năng. Số tàu công suất dưới 20CV tham gia khai thác vùng ven bờ còn chiếm tỷ lệ lớn. Trang thiết bị liên lạc phục vụ phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, thông tin liên lạc giữa các tàu cá và bờ chưa được thường xuyên nên việc kêu gọi tàu thuyền vào nơi neo đậu tránh trú gặp nhiều khó khăn, ngư dân chưa chấp hành tốt hướng dẫn của người điều phối tại khu neo đậu khi có bão.
Bước sang năm 2019, tỉnh ta phấn đấu tổng diện tích nuôi thủy sản đạt 16.215ha; trong đó nuôi mặn lợ đạt 6.415ha, nuôi nước ngọt đạt 9.800ha. Phấn đấu tổng sản lượng thủy sản đạt 154.400 tấn, tăng 3% so với năm 2018; trong đó, sản lượng nuôi trồng đạt 101.290 tấn, sản lượng khai thác đạt 53.110 tấn. Để hoàn thành mục tiêu đã đặt ra, trong năm 2019 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục bám sát chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế thủy sản bền vững như: từng bước chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản theo hướng giảm cường lực khai thác ven bờ, phát triển khai thác xa bờ theo hướng chọn lọc, bền vững. Tăng cường kiểm tra, giám sát và thắt chặt quản lý, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trong khai thác thủy sản, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định. Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng tập trung, phát triển bền vững, nâng cao giá trị gia tăng, ứng dụng công nghệ cao nhằm tăng năng suất, tạo ra lượng hàng hóa lớn, an toàn thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tích cực hỗ trợ xây dựng các chuỗi, vùng liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm góp phần nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản trong tỉnh. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cộng đồng, chính quyền các cấp, nhất là các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực thủy sản, thực hiện tốt các quy định của Luật Thủy sản 2017, Luật An toàn thực phẩm và các quy định về khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU), đảm bảo an toàn cho người và phương tiện khi có bão, áp thấp nhiệt đới trên biển… Đẩy mạnh tuyên truyền nhân rộng các điển hình về phát triển thủy sản; phát triển thủy sản theo mô hình doanh nghiệp, trang trại, gia trại tại các vùng xa khu dân cư theo quy hoạch và gắn chặt với nhu cầu của thị trường, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Đánh giá, nhân rộng các mô hình sản xuất phù hợp, hiệu quả. Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn ngư dân liên kết sản xuất trên biển theo tổ đội, tổ hợp tác, nghiệp đoàn để nâng cao hiệu quả khai thác thủy sản. Tập trung phát triển những sản phẩm thủy sản có giá trị kinh tế cao; khuyến khích áp dụng tiến bộ công nghệ, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nhằm phát triển thủy sản bền vững, đảm bảo an toàn thực phẩm. Xúc tiến thu hút các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất giống thủy sản chất lượng cao tại địa phương nhằm giảm chi phí cho người nuôi./.
Bài và ảnh: Thành Trung