Ngày 25-5, Kỳ họp thứ năm, Quốc hội (QH) khóa XIV tiếp tục chương trình làm việc tại hội trường, thảo luận đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2017; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và NSNN những tháng đầu năm 2018 (trong đó có kết hợp thảo luận Báo cáo về kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2017) và quyết toán NSNN năm 2016.
Thảo luận, đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và NSNN năm 2017, phần lớn các ý kiến cho rằng, đây là năm thành công của Việt Nam, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, dự trữ ngoại tệ đạt kỷ lục. Tăng trưởng kinh tế đạt mức 6,81%, cao nhất từ năm 2011 đến nay, cả ba khu vực: nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đều có sự tăng trưởng.
Quý I-2018, GDP đạt 7,38%, là mức tăng cao nhất trong 10 năm qua. Điều này đem lại kỳ vọng lớn, nhưng cũng tạo áp lực về tăng trưởng GDP trong ba quý còn lại trong bối cảnh các động lực tăng trưởng dựa vào một số yếu tố như trong năm 2017 sẽ khó lặp lại. Bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hạn chế, sản xuất công nghiệp vẫn chưa tham gia được nhiều vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu… Mô hình tăng trưởng dựa vào nguồn thu trong nước, giảm dần phụ thuộc vào nguồn thu từ dầu thô thời gian qua đã phản ánh sự bền vững của nền kinh tế.
Toàn cảnh phiên thảo luận ngày 25-5. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Một số ý kiến cho rằng, nhiều giải pháp cải cách hành chính đã được thực hiện tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp (DN), một số bộ, ngành tiếp tục cắt giảm mạnh các thủ tục hành chính. Tuy nhiên, tình trạng “giấy phép con, cháu” còn khá nhiều, môi trường kinh doanh vẫn còn rào cản, chưa đạt hiệu quả như mong đợi, chi phí logistics, kiểm tra chuyên ngành còn khá cao, gấp khoảng 1,5 lần so với các nước trong khu vực… khiến số DN đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 23,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Các đại biểu đề nghị Chính phủ chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương, tập trung cao cho việc tháo gỡ những điểm nghẽn này, đồng thời có các giải pháp phát triển DN, thúc đẩy đổi mới sáng tạo khởi nghiệp và sớm có những hướng dẫn cụ thể để các DN vừa và nhỏ thật sự tiếp cận những ưu đãi trong Luật Hỗ trợ DN vừa và nhỏ, loại bỏ các rào cản, điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý, gây cản trở hoạt động của DN; tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư.
Các ý kiến đề nghị, những tháng tiếp theo của năm 2018, Chính phủ cần tiếp tục điều hành theo hướng tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Chính phủ cơ cấu lại NSNN theo hướng tăng dần tỷ trọng thu trong nước, nghiên cứu, phát huy tiềm năng thế mạnh từng vùng, vực dậy những nơi còn khó khăn, quy hoạch phát triển kinh tế theo vùng tốt hơn. Điều hành chặt chẽ hiệu quả đầu tư nguồn lực hợp lý, bảo đảm phát triển đồng đều trên cơ sở các khu động lực của nền kinh tế đất nước.
Nhiều đại biểu cho rằng, thị trường bất động sản hiện có dấu hiệu nóng lên, nhất là các thành phố lớn, tiềm ẩn nhiều rủi ro; có hiện tượng đầu cơ, tăng giá đất đột biến tại các địa điểm chuẩn bị hình thành đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt trước những thông tin về cơ chế, chính sách mới đang được trình QH.
Một số ý kiến đề nghị, Chính phủ sớm tập trung giải pháp, nguồn lực chỉ đạo tổng kiểm tra về đất đai cả nước, tập trung ở những đô thị, những khu vực “đất vàng”, khu vực chuẩn bị hình thành các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Bởi vì, nguồn lực lớn của đất nước từ đất đai, nhất là “đất vàng, đất bạc” thời gian qua rơi vào tay nhiều DN, nhưng không được đầu tư sản xuất mà nhằm sang nhượng dự án, phân lô bán nền và nhiều hình thức khác làm thất thu lớn cho NSNN. Đại biểu Đinh Duy Vượt (Gia Lai) cho biết, nhiều DN có dấu hiệu là sân sau của một số quan chức thâu tóm, chiếm đoạt bằng nhiều thủ đoạn, tùy tiện điều chỉnh quy hoạch, điều chỉnh dự án, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Vì vậy, cần sự vào cuộc quyết liệt của cơ quan chức năng để giải quyết triệt để tình trạng này.
Đại biểu Trần Văn Lâm (Bắc Giang) cho biết, vấn đề đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đất đai có xu hướng ngày càng tăng, nhiều vụ kéo dài hàng chục năm chưa dứt điểm. Đất nước đã trải qua mấy chục năm đổi mới, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển vượt bậc, những quan hệ sản xuất dựa trên nền tảng sở hữu, quản lý, sử dụng đất đai và phân phối lợi ích từ đó mang lại dường như chưa thay đổi kịp, nhiều mâu thuẫn tích tụ…
Đại biểu Phan Viết Lượng (Bình Phước) nêu ý kiến, nhiều địa phương, cơ quan, DN Nhà nước buông lỏng quản lý, để hoang, sử dụng sai mục đích nhiều khu đất có giá trị. Bán, cho thuê nhiều nhà đất công không đúng đối tượng, giá quá thấp gây thất thoát, lãng phí lớn. Trong điều kiện dư địa tăng trưởng kinh tế dần bị thu hẹp như hiện nay, việc quản lý đất đai của Nhà nước phải là nhiệm vụ cấp thiết và cần có giải pháp đột phá, tạo chuyển biến thực chất. Chấn chỉnh, xử lý nghiêm các sai phạm trong quản lý Nhà nước về đất đai ở các thành phố lớn, các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, trong quản lý và sử dụng đất công, trong quản lý quy hoạch đô thị ở các thành phố. Có giải pháp phát triển thị trường bất động sản ổn định, minh bạch, sử dụng hiệu quả đất đai, quản lý chặt chẽ các dự án phát triển nhà ở, căn hộ khách sạn, căn hộ văn phòng…
Nhiều đại biểu cho rằng, trong lĩnh vực nông nghiệp, tình hình chăn nuôi gia cầm hiện còn khó khăn, sản xuất rau, củ, quả dư thừa ở một số địa phương; vẫn còn hiện tượng phải “giải cứu” nông sản. Điều này cho thấy chưa có sự gắn kết thường xuyên giữa hoạt động sản xuất nông nghiệp với nhu cầu thị trường; công tác dự báo thị trường đối với nông sản chưa đáp ứng yêu cầu chủ động, từ xa, mang tầm chiến lược; hệ thống phân phối chưa đồng bộ và hiệu quả.
Theo đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) và một số đại biểu, để không còn câu chuyện “nông nghiệp giải cứu”, “nông nghiệp từ thiện” thì cần chuyển tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, hướng tới xây dựng chuỗi ngành hàng nông sản. Tuy nhiên, để có sự thay đổi rất cần một hệ thống chính sách hỗ trợ cho công nghệ bảo quản, chế biến, thương mại hóa sản phẩm, kết nối thị trường. Đổi mới công tác khuyến nông theo hướng không chỉ hỗ trợ kỹ thuật về tăng sản lượng mà hỗ trợ người sản xuất tiếp cận thông tin thị trường, công nghệ bảo quản chế biến nông sản và phát triển thị trường. Đại biểu Nguyễn Văn Sơn (Hà Tĩnh) đề nghị, để chuyển dịch nền nông nghiệp sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm liên kết với DN thay cho nông nghiệp “giải cứu” như hiện nay, đề nghị Chính phủ sớm có chủ trương để thực hiện bảo hiểm sản phẩm nông nghiệp, nhất là nhóm sản phẩm chủ lực để người nông dân an tâm. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm các địa phương trong chỉ đạo sản xuất, cung cấp thông tin tư vấn, cảnh báo của Nhà nước và thông tin thị trường liên kết sản xuất đồng bộ để giúp người nông dân chủ động trong sản xuất và phát triển.
Một số đại biểu nêu giải pháp để giải quyết hai “điểm nghẽn” trong lĩnh vực nông nghiệp là năng suất và chất lượng nông sản. Đó là, có cơ chế thúc đẩy nhanh và quyết liệt hơn nữa quá trình tích tụ đất đai, đẩy mạnh hợp tác liên kết giữa DN và nông dân, xây dựng cánh đồng lớn, vùng sản xuất tập trung. Chỉ có tích tụ và tập trung đất đai trên nền tảng một tư duy thị trường, cùng với các ưu đãi đủ mạnh về thuế, tín dụng để tạo đột phá trong nông nghiệp. Bên cạnh đó là thúc đẩy các chính sách hỗ trợ mang tính đột phá cả về môi trường kinh doanh lẫn nguồn vốn cho các DN nông nghiệp, nhất là các DN công nghệ cao.
Tại phiên thảo luận, Bộ trưởng NN và PTNT Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng KH và ĐT Nguyễn Chí Dũng đã phát biểu ý kiến trao đổi, giải trình các nội dung được đại biểu QH quan tâm.
Tiếp tục chương trình ngày 26-5, kỳ họp thứ năm, QH khóa XIV làm việc tại hội trường. Buổi sáng, các đại biểu QH thảo luận đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và NSNN năm 2017; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và NSNN những tháng đầu năm 2018 (trong đó có kết hợp thảo luận cùng Báo cáo về kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2017) và quyết toán NSNN năm 2016. Buổi chiều, QH nghe Tờ trình, Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về xử lý một số vấn đề phát sinh trong điều hành NSNN năm 2017 và dự toán NSNN các năm 2018-2020 và thảo luận về dự thảo Nghị quyết này.
Thảo luận tại phiên họp, nhiều đại biểu cho rằng, tăng trưởng thời gian qua còn phụ thuộc nhiều vào khối DN FDI, đã phản ánh sự thiếu bền vững của nền kinh tế, tỷ trọng công nghiệp vẫn dựa vào vốn đầu tư và tăng trưởng số lượng DN, trong khi năng suất, chất lượng lao động, sức cạnh tranh của DN, áp dụng tiến bộ khoa học còn hạn chế… Vì vậy, Chính phủ cần quan tâm hơn nữa chất lượng tăng trưởng, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại và siết chặt kỷ cương NSNN, tập trung bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phân bổ nguồn lực đầu tư hợp lý, tập trung chỉ đạo triển khai các công trình quan trọng quốc gia. Cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh cho DN, nông dân, ngư dân, nhất là DN vừa và nhỏ.
Phát biểu ý kiến giải trình những vấn đề được đại biểu QH nêu, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, Chính phủ đã và đang thực hiện đồng bộ các giải pháp để cơ cấu lại NSNN theo hướng bền vững. Chính sách thu tiếp tục được hoàn thiện theo hướng giảm nghĩa vụ nộp thuế, trong đó, thuế thu nhập DN giảm từ 23 xuống 20%. Việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết hội nhập. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa lĩnh vực thuế và hải quan. Đến nay, phần lớn DN thực hiện tự khai, tự nộp thuế, thực hiện thủ tục hoàn thuế qua hệ thống điện tử. Mở rộng kết nối, thu thuế điện tử giữa cơ quan thuế, hải quan, các ngân hàng với Kho bạc Nhà nước, góp phần nâng cao chỉ số xếp hạng cạnh tranh quốc gia.
Bên cạnh đó, việc thực hiện cắt giảm một số sắc thuế với mức cao và nhanh hơn so với lộ trình trong thời gian qua đã tạo thuận lợi cho DN nâng cao khả năng cạnh tranh. Về thuế bảo vệ môi trường, thuế tiêu thụ đặc biệt, nghiên cứu theo hướng mở rộng các đối tượng, mở rộng cơ sở thu thuế, điều chỉnh mức thuế hợp lý, phù hợp yêu cầu bảo vệ môi trường và định hướng tiêu dùng trong tình hình mới. Về thuế tài sản, tiếp tục nghiên cứu theo hướng tạo công bằng xã hội và thêm cơ sở để quản lý xã hội cũng như định hướng thị trường, bảo đảm công khai minh bạch tài sản phục vụ cho công tác phòng, chống tham nhũng.
Về lĩnh vực chi NSNN, tiếp tục thực hiện các giải pháp mạnh mẽ hơn để siết chặt việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương tài chính, thường xuyên rà soát sửa đổi, bổ sung chế độ định mức chi tiêu, quản lý chặt chi NSNN, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán, thanh tra, xử lý nghiêm các sai phạm về quản lý tài chính ngân sách và quản lý tài sản của Nhà nước, thu hồi đầy đủ vào NSNN đối với các khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức và làm tốt hơn công tác tuyên truyền.
Tham gia phát biểu ý kiến giải trình, Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh cho biết, đến nay, 12 dự án có sai phạm, hoạt động kém hiệu quả của ngành Công thương đã được đánh giá toàn bộ những tồn đọng, vi phạm, sai phạm để có hướng giải quyết; mục tiêu hết năm 2018 sẽ xử lý cơ bản những vấn đề lớn tồn tại, năm 2020 sẽ giải quyết tồn đọng của tất cả 12 dự án. Đến nay, trong 6 dự án tạm dừng hoạt động sản xuất, kinh doanh và thua lỗ, đã có 2 dự án khôi phục hoạt động và có lãi, đó là Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 1 của Hải Phòng và dự án Nhà máy thép Việt Trung. 3 dự án bị dừng sản xuất, kinh doanh là PVTex Đình Vũ, Ethanol Quảng Ngãi và Ethanol Bình Phước; hiện nay PVTex Đình Vũ vận hành sản xuất trở lại, đã ký được hợp đồng với các đối tác nước ngoài để bao tiêu sản phẩm. 4 dự án còn lại đã từng bước giảm lỗ và hoạt động sản xuất, kinh doanh đi vào ổn định, gồm: Nhà máy Phân đạm Ninh Bình, Nhà máy Đạm Hà Bắc, Nhà máy DAP số 2 Lào Cai và Cty đóng tàu ở Dung Quất. Đối với Dự án gang thép Thái Nguyên, đã rút được 1.000 tỷ đồng vốn Nhà nước, nhằm bảo đảm hiệu quả bảo vệ nguồn vốn của Nhà nước và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư mới giải quyết những tồn đọng.
Đại biểu Bùi Sỹ Lợi (Thanh Hóa) và một số đại biểu khác cho rằng, phòng ngừa rủi ro để bảo đảm cuộc sống cho người lao động, bao gồm giải quyết việc làm, đào tạo nâng cao tay nghề để người lao động bước vào thị trường lao động, là rất quan trọng. Tuy nhiên, Việt Nam hiện có 53,7 triệu lao động nhưng có tới 70% trong số này đang làm việc trong khu vực không có quan hệ lao động, với tỷ lệ làm việc không bền vững rất cao. Chính phủ cần tập trung giải pháp quyết liệt để nâng cao trình độ cho lực lượng lao động chuẩn bị bước vào thị trường lao động và lực lượng lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, nhằm đi trước đón đầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Liên quan nội dung này, các đại biểu Nguyễn Như So (Bắc Ninh), Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị) cho biết, năng suất lao động được xem là đòn bẩy phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, Việt Nam có năng suất lao động thấp mà nguyên nhân chủ yếu là do tăng trưởng dựa vào chiều rộng, tăng vốn đầu tư và tăng lao động… Đề nghị Chính phủ cần có cuộc điều tra, khảo sát, đánh giá, nhận diện đầy đủ về tình hình chất lượng năng suất lao động để khẩn trương xây dựng chiến lược chính sách, giải pháp mạnh giúp nâng cao chất lượng, năng suất lao động.
Phát biểu ý kiến giải trình, Bộ trưởng LĐ-TB và XH Đào Ngọc Dung cho biết, tuy tỷ lệ giải quyết việc làm trong nước đạt 102% kế hoạch, nhưng nhìn tổng thể, tính bền vững của việc làm không cao, kể cả về thu nhập, môi trường lao động an toàn… Thị trường lao động chưa hình thành đồng bộ theo cơ chế thị trường, lao động phổ thông chiếm tỷ lệ cao, còn thiếu nhân lực quản lý và nhân lực chất lượng cao, nhất là ở các ngành kinh tế động lực. Việc làm cho thanh niên, sinh viên ra trường còn khó khăn, thất nghiệp tỷ lệ cao… Hiện nay, ngành đã chuyển sang đào tạo theo định hướng, theo địa chỉ, theo đặt hàng với DN trên cơ sở dự báo cung cầu thị trường. Bộ đã thí điểm 10 trường ký kết với 15 tập đoàn trong nước và quốc tế để đào tạo 150 nghìn người từ năm 2018 đến 2020. Bên cạnh đó, xây dựng các giải pháp toàn diện trong hoạch định chính sách, thúc đẩy tăng trưởng năng suất, chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, cải thiện trình độ kỹ thuật lao động và quản trị DN. Khuyến khích đầu tư khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu sang hoạt động có giá trị gia tăng, chuyển dịch cơ cấu lao động từ lĩnh vực có năng suất thấp sang lĩnh vực lao động có năng suất cao.
Chiều cùng ngày, QH nghe Tờ trình dự thảo Nghị quyết về xử lý một số vấn đề phát sinh trong điều hành NSNN năm 2017 và dự toán NSNN các năm 2018-2020; nghe Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết này. Theo đó, Tờ trình của Chính phủ đề nghị QH xem xét, quyết định các vấn đề: Phân chia khoản thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước năm 2017; xử lý nghĩa vụ của NSNN đối với quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) liên quan đến khoản đóng góp BHXH cho người lao động làm việc trong khu vực Nhà nước trước ngày 1-1-1995.
Thảo luận tại hội trường, nhiều đại biểu bày tỏ lo ngại về những tác động tiêu cực bắt nguồn từ “độ trễ” trong ban hành các nghị định kèm theo những bộ luật, như: Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước... Theo đại biểu Trần Thị Dung (Điện Biên), Luật Khoáng sản có hiệu lực từ ngày 1-7-2011, nhưng phải tới ngày 20-1-2014, Nghị định 203/2013/NĐ-CP về phương pháp tính mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản mới có hiệu lực - chậm gần hai năm sáu tháng. Tương tự, Luật Tài nguyên nước có hiệu lực từ ngày 1-1-2013, nhưng đến ngày 1-9-2017, Nghị định 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước mới được ban hành - chậm bốn năm tám tháng. Vừa qua, Chính phủ đã có Tờ trình đề nghị Ủy ban Thường vụ QH cho miễn phần không thu được từ việc cấp quyền khai thác khoáng sản trong thời gian từ khi Luật Khoáng sản có hiệu lực đến khi Nghị định 203/2013/NĐ-CP được ban hành. Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, khoản tiền nêu trên là hơn 2.835 tỷ đồng. Trong khi đó, khoản không thu được từ việc cấp quyền khai thác tài nguyên nước trong khoảng thời gian từ ngày 1-1-2013 đến 1-9-2017 thì vẫn chưa được báo cáo. Đây đều là những khoản NSNN, vì vậy đề nghị Chính phủ làm rõ, đồng thời chấm dứt tình trạng chậm trễ giữa thời điểm ban hành luật và nghị định kèm theo.
Đồng tình với ý kiến nêu trên, đại biểu Tạ Văn Hạ (Bạc Liêu) cho rằng, những khoản tiền phát sinh do “độ trễ” giữa luật và nghị định là minh chứng cho sự thiếu công bằng đối với các DN và nhà đầu tư. Bên cạnh đó, còn sự bất cập từ những khoản thu chồng chéo, cụ thể là các khoản thuế đất hay thuế mặt nước. Vì vậy, Chính phủ cần làm rõ mối liên hệ giữa “thuế tài nguyên nước” và “thuế mặt nước”, bởi có nhiều DN đang phải chịu cảnh “thuế chồng thuế”. Điển hình như các DN sản xuất nước sinh hoạt, sở hữu hồ chứa nước thì phải đóng cả thuế tài nguyên nước và thuế mặt nước cùng lúc.
Đối với việc Chính phủ chuyển các khoản tiền BHXH về Quỹ BHXH, phần lớn ý kiến đại biểu bày tỏ nhất trí, nhưng đề nghị Chính phủ cần xem xét, làm rõ thêm một số nội dung để bảo đảm nghĩa vụ cũng như quyền lợi của người lao động.
Cuối ngày làm việc, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng đã giải trình một số ý kiến mà các đại biểu QH đã nêu.
Chủ nhật, ngày 27-5-2018: Quốc hội nghỉ.
Hôm nay, thứ hai, ngày 28-5-2018: Quốc hội làm việc tại hội trường, giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DN và cổ phần hóa DN Nhà nước giai đoạn 2011-2016.
Phiên họp sẽ được Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Truyền hình Quốc hội Việt Nam truyền hình, phát thanh trực tiếp và các phương tiện thông tin đại chúng khác đưa tin để cử tri và đồng bào cả nước theo dõi./.
Theo chinhphu.vn