Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội

07:11, 04/11/2016

Thực hiện chương trình làm việc của kỳ họp thứ 2, Quốc hội dành 2 ngày 2 và 3-11 để thảo luận về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 và tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.

Tại phiên thảo luận ghi nhận nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với những nhận định của Chính phủ được đề cập trong Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2016 và nhiệm vụ năm 2017. Mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế nhưng tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt kết quả khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. 

Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; sản xuất, kinh doanh tiếp tục phát triển; tái cơ cấu nền kinh tế đạt một số kết quả; đầu tư khu vực tư nhân chuyển biến mạnh mẽ; niềm tin của xã hội và thị trường tăng lên. Các trung tâm kinh tế lớn tiếp tục phát huy vai trò đầu tầu tăng trưởng, làm động lực phát triển của các vùng và cả nước; nhiều địa phương khó khăn đã nỗ lực vươn lên. 

Văn hóa, xã hội có tiến bộ; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được chú trọng. Cải cách hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh có tiến bộ...

Năm 2016 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, cùng với những thuận lợi và khó khăn đan xen nhưng với sự nỗ lực cao, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, các bộ, ngành đất nước đã đạt và vượt nhiều chỉ tiêu đề ra, quốc phòng an ninh được đảm bảo, an ninh được giữ vững. Dự báo năm 2016, có 11/13 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch; 2 chỉ tiêu về tăng trưởng GDP và xuất khẩu xấp xỉ đạt.

Bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn, tình hình nợ công, nợ xấu tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao, việc đầu tư sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước ở một số dự án chưa hiệu quả... Đây là những vấn đề Chính phủ cần quyết liệt trong chỉ đạo điều hành để không xảy ra hiện tượng này trong thời gian tới.

Vấn đề nợ công cao, áp lực trả nợ lớn, doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả... là vấn đề được nhiều đại biểu nêu trong phiên thảo luận.

Phân tích thực trạng được nêu trong Báo cáo của Chính phủ, đại biểu Nguyễn Hữu Cầu (Nghệ An) đề nghị năm 2017 phải siết chặt hơn nữa kỷ luật ngân sách, quản lý chặt chẽ hơn nữa nợ công. Theo báo cáo của Chính phủ và thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, dự báo năm 2017 phấn đấu tăng trưởng GDP là 6,7%, theo đó nợ công dự báo là 64,8%, nợ Chính phủ dự báo là 53,3% GDP và nợ nước ngoài quốc gia là 47,4%.

Chính phủ đề nghị Quốc hội phê duyệt năm 2017 và giai đoạn 2016-2020 nợ công tương ứng là 65, 55 và 50% theo đại biểu là không đúng với quan điểm siết chặt nợ công, thực hiện nghiêm kỷ luật ngân sách. 

Đại biểu Nguyễn Hữu Cầu đề nghị Quốc hội không chỉ siết chặt trần nợ công mà còn giao cho Chính phủ phấn đấu làm giảm nợ công. Đại biểu đề xuất nợ công không quá 65% GDP, đến năm 2020 không quá 63%; nợ Chính phủ không quá 53% GDP, đến năm 2020 không quá 50% GDP; nợ nước ngoài quốc gia không quá 50% GDP, đến năm 2020 không quá 47% GDP.

Theo quan điểm của đại biểu Vũ Tiến Lộc (Thái Bình), mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7% cho năm 2017 là tương đối cao. Đại biểu phân tích đầu năm 2016 nền kinh tế mới chỉ tăng trưởng chưa đến 6%. Các động lực chính của tăng trưởng là đầu tư công và xuất khẩu đều không đạt kế hoạch, trong khi nền kinh tế thế giới vẫn chưa khởi sắc, kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, gần 60% doanh nghiệp kinh doanh không có lãi, dịch bệnh thiên tai trước tác động của biến đổi khí hậu...

Đại biểu lo ngại bởi có rất nhiều thứ như kế hoạch thu/chi ngân sách, nợ công... sẽ được lập trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng GDP và nếu tăng trưởng không đạt mục tiêu sẽ có hiệu ứng domino đến những chỉ tiêu khác.

Về cải thiện môi trường kinh doanh, các ý kiến cho rằng thời gian qua, Chính phủ đã vào cuộc quyết liệt, phát đi những thông điệp rõ ràng, khẳng định vai trò tiên phong của doanh nghiệp nỗ lực tháo gỡ khó khăn, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. 

Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 19 (những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020) và Nghị quyết số 35 về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Qua đó, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam có những bước cải thiện, năng lực cạnh tranh được nâng lên, các tổ chức quốc tế có uy tín ghi nhận, cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao, tạo cho doanh nghiệp nhiều kỳ vọng đến một bước ngoặt thực sự cải thiện môi trường kinh doanh, mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển của doanh nghiệp. 

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng việc cải thiện môi trường kinh doanh ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn, rào cản. Việc thực hiện Nghị quyết số 19 và Nghị quyết số 35 còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi phối hợp triển khai, việc xây dựng chương trình hành động còn mang tính “đối phó”, “qua loa” tập trung ở một số tỉnh, thành phố, cơ quan, đơn vị...

Từ những lo lắng này, đại biểu Nguyễn Bá Sơn (Đà Nẵng) đề nghị thời gian tới, Chính phủ và các bộ, ngành tiếp tục rà soát, cải cách điều kiện kinh doanh và rà soát các quy định không còn phù hợp, cản trở đầu tư kinh doanh để trình Quốc hội sửa đổi, đáp ứng tình hình hội nhập và tạo điều kiện thuận lợi và sự phát triển của doanh nghiệp.

Phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng được nhiều đại biểu đánh giá là một phương thức quan trọng trong việc thúc đầy nền kinh tế phát triển. Đây là vấn đề được Đảng, Nhà nước nhận thức rất sớm, ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VIII và qua các kỳ Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII đều được tiếp tục làm rõ và định hướng chiến lược phát triển vùng. 

Trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế vùng, đã đạt được những thành quả nhất định, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó có nhiều hạn chế, cần được nhìn nhận thẳng thắn. 

Các vùng kinh tế trọng điểm chưa thực sự phát huy được vai trò đầu tầu, tác dụng lan tỏa, hiệu quả đầu tư chưa thật sự vượt trội, thiếu cơ chế chính sách đặc thù để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và vùng có lợi thế làm đầu tầu kéo nền kinh tế phát triển.

Để thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển tổng thể của vùng gắn chặt với bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu; phân tích thế mạnh của từng vùng tạo nên nhiều chuỗi giá trị hàng hóa trong chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời tập trung phát triển nhanh hơn các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.

Cùng với đó cần hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương đảm bảo tính thống nhất; tập trung quản lý Nhà nước về kinh tế, đảm bảo giám sát tốt việc thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong vùng và của vùng, tránh tình trạng trùng lắp lợi ích, cạnh tranh lẫn nhau. 

Trong thực hiện, đại biểu đề nghị các tỉnh, thành phố đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc nâng cao khả năng tổ chức hoạt động phối hợp liên tỉnh; tăng cường công tác phối hợp giữa lãnh đạo các tỉnh, thành phố trong việc thực thi chính sách chung của Chính phủ đề ra, khắc phục tính cục bộ trong hoạt động xây dựng địa phương, xóa bỏ tư duy khép kín.

Về tiếp tục tái cơ cấu nền kinh tế, nhiều giải pháp để tiếp tục tái cơ cấu nền kinh tế đã được các đại biểu đặt ra trong phiên thảo luận. Nhiều đại biểu ghi nhận công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan.

Chính phủ đã thể hiện được sự sâu sát, quyết liệt của Chính phủ hành động và kiến tạo. Kết quả về kinh tế - xã hội đạt được cho đến thời điểm này đã thể hiện rõ vai trò của Chính phủ và người đứng đầu Chính phủ. Tuy nhiên, nếu không nâng cao được hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, nhất là ở các cấp chính quyền địa phương và nếu không chống được nhũng nhiễu, tiêu cực thì mục tiêu đặt ra khó có thể đạt được và có đạt được cũng không bền vững.

Quan tâm đến nguồn lực để tái cơ cấu nền kinh tế, đại biểu Phạm Quang Dũng (Nam Định) cho rằng nguồn lực của Việt Nam vẫn còn nhiều, điều quan trọng là cần phát huy được những nguồn lực đó. Đó là nguồn tài sản ở các doanh nghiệp Nhà nước, tài sản của các cơ quan hành chính cung cấp các dịch vụ công...

Theo tính toán của các chuyên gia, giá trị các nguồn tài sản này khoảng 500 tỷ USD. Nếu phân bổ hiệu quả, hợp lý nguồn lực này để tái cơ cấu trong giai đoạn đến năm 2020 thì sẽ là cú hích lớn cho tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Thông tin về việc tái cơ cấu nông nghiệp, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đánh giá qua 30 năm đổi mới, ngành Nông nghiệp đã có những thành tựu to lớn, chuyển từ nền nông nghiệp bao cấp, tập trung đến một ngành nông nghiệp sản xuất đủ lương thực cho trong nước và xuất khẩu hằng năm lên đến gần 30 tỷ USD. Đây là một cố gắng rất lớn của Chính phủ.

Tuy nhiên, nền nông nghiệp hiện nay chủ yếu vẫn dựa trên quy mô hộ nhỏ lẻ, manh mún nên năng suất lao động, năng suất kinh tế, đời sống, thu nhập của người nông dân còn nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có những chủ trương và Chính phủ đã ban hành đề án Tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng phát triển tập trung, bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế.

Làm rõ thêm về Đề án Tái cơ cấu nông nghiệp, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nêu rõ thực hiện Đề án, lãnh đạo 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đều vào cuộc tích cực, trong đó nhiều địa phương đã có những thành công bước đầu, một số ngành hàng lớn đã được hình thành, có nền tảng để hội nhập quốc tế. Ví dụ về chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn, thủy sản đã hoàn thiện cơ bản về nguồn giống, tiếp cận được công nghệ tiên tiến trên thế giới. Hiện Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp lớn quan tâm, tập trung đầu tư về nông nghiệp. Đó là những dẫn chứng cho thấy tái cơ cấu nông nghiệp đã có những thành công bước đầu.

Chỉ ra những hạn chế, bất cập trong tái cơ cấu nông nghiệp, Bộ trưởng cho rằng đó là sức sản xuất, quy mô, công nghệ sản xuất lớn vẫn chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, còn chủ yếu vẫn là sản xuất quy mô nhỏ lẻ, với công nghệ không cao nên khó kiểm soát về an toàn thực phẩm, đồng thời sức cạnh tranh không tốt. Chuỗi sản xuất tạo ra chủ yếu là sản phẩm thô. Thị trường thiếu ổn định, thậm chí tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nhân tố hạt nhân trong tổ chức sản xuất là doanh nghiệp, hợp tác xã hiện mới có khoảng 4.000 doanh nghiệp, 12 nghìn hợp tác xã. Những con số đó cho thấy nhân tố chủ chốt trong sản xuất hàng hóa lớn đang còn rất ít về số lượng và quy mô.

Thời gian tới, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cần xác định những nhóm sản phẩm lợi thế cấp quốc gia cần dồn lực để phát triển. Hiện Bộ NN và PTNT đã xác định khoảng 10 sản phẩm có giá trị xuất khẩu từ 10 tỷ USD trở lên như cá tra, tôm, hạt điều, cà phê... Bên cạnh đó, cần tập trung các nhóm sản phẩm có đặc thù từng tỉnh, địa phương…, tập trung tháo gỡ những “nút thắt”, điểm nghẽn trong sản xuất nông nghiệp.

Vướng mắc lớn nhất hiện nay là vấn đề tích tụ đất đai trong sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Qua khảo sát có thể thấy ở đâu nông dân tích tụ từ 50-100ha đất nông nghiệp thì có thể sản xuất hàng hóa quy mô lớn.

Đối với “nút thắt” thứ 2 là về chính sách, Bộ trưởng kiến nghị cần sửa ba nhóm chính sách quan trọng: Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nông nghiệp; chính sách với hợp tác xã; chính sách về các vùng dễ tổn thương, vùng sâu, vùng xa phát triển sản xuất nông nghiệp tại địa phương...

Trong phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ TN và MT Trần Hồng Hà đã làm rõ một số vấn đề về tài nguyên môi trường và biến đổi khí hậu. Về tài nguyên đất, Bộ trưởng đánh giá đây là tài nguyên quý giá của đất nước, việc quy hoạch sử dụng là vấn đề cấp bách.

Đối với tài nguyên nước, theo Bộ trưởng, nước cho sản xuất và sinh hoạt đang là điểm nóng trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Thời gian tới, Bộ sẽ tập trung hợp tác quốc tế giữa các nước trong lưu vực để chia sẻ hợp lý nguồn nước lưu vực sông chung biên giới; nghiên cứu lập kế hoạch thích ứng tối ưu với biến đổi khí hậu như vùng đồng bằng sông Cửu Long; tập trung xem xét quy hoạch trong khai thác, sử dụng, để tránh xung đột giữa các ngành, lĩnh vực, các vùng.

Xung quanh lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, để quản lý tốt, theo Bộ trưởng, để hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô cần sử dụng hiệu quả khoa học công nghệ mới; tăng cường thăm dò, khai thác ở các vùng biển, hải đảo; phối hợp với quốc tế sử dụng công nghệ hiện đại...

Giải đáp nội dung được nhiều đại biểu quan tâm về các chính sách liên quan đến lĩnh vực cán bộ, công chức, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết, Bộ đang chuẩn bị tổng kết 10 năm thực hiện Luật Cán bộ, công chức, viên chức, trong đó đề xuất thay đổi một số chính sách hiện nay.

Về bổ nhiệm chức danh “hàm” đối với cán bộ, công chức, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân thông tin, từ kỳ họp trước, thực hiện Nghị quyết về chất vấn của Quốc hội, Chính phủ đã giao Bộ Nội vụ nghiên cứu đề xuất về chức danh “hàm” đối với cán bộ, công chức. Bộ đã nghiên cứu các quy định về bổ nhiệm cấp hàm trong hệ thống các chức danh, chức vụ ở các cơ quan trong hệ thống chính trị.

Tháng 10-2015, Bộ Nội vụ đã có tờ trình Thủ tướng nghiên cứu đề xuất về chức danh “hàm” đối với cán bộ, công chức. Sau đó, Thủ tướng đã có ý kiến chỉ đạo, giao Bộ Nội vụ tiếp tục hoàn thiện đề án theo hướng xác định rõ đề xuất quy định về bổ nhiệm chức danh hàm là theo quyết định của Thủ tướng Chính hay Nghị định của Chính phủ.

Bộ trưởng nêu rõ trong Luật Cán bộ, công chức không có chức danh “hàm”. Việc xây dựng chức danh “hàm” cũng như các chức danh Thư ký của Bộ trưởng, Thứ trưởng và Bí thư các Tỉnh ủy cũng không có trong Luật Cán bộ, công chức. Bộ Nội vụ sẽ kết hợp nghiên cứu để trình bổ sung chức danh này.

Đại biểu Nguyễn Thị Yến (Bà Rịa - Vũng Tàu) nêu quan điểm Việt Nam với 3.260km đường biển, 114 cửa sông, lạch, khoảng 4.000 đảo lớn nhỏ, với nguồn tài nguyên khoáng sản, hải sản dồi dào, đồng thời là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển của thế giới. Điều này thuận lợi cho sự phát triển các ngành kinh tế biển quan trọng như cảng biển, thủy sản, dầu khí, khai khoáng, hàng hải... và các lĩnh vực dịch vụ liên quan.

Đại biểu nêu thực tế hệ thống cảng biển Việt Nam có gần 50 cụm cảng biển lớn, nhỏ phân bổ đều từ Bắc vào Nam, trong đó nhiều cảng biển được đầu tư hiện đại như Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh... Tuy nhiên, khối lượng hàng hóa thông quan chưa đạt yêu cầu, công nghiệp phụ trợ còn hạn chế, thiếu sức cạnh tranh, đánh bắt hải sản, chế biến chưa được quan tâm đúng mức.

Du lịch biển, vai trò lợi thế kinh tế biển chưa được xác định rõ và quan tâm đầu tư. Biến đổi khí hậu, xói mòn, rửa trôi, sạt lở bờ biển ảnh hưởng đến lãnh thổ, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đại biểu kiến nghị, nếu có Chiến lược phát triển kinh tế biển đúng hướng gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, sẽ tạo ra nguồn lực vô cùng to lớn, đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước.

Trong phiên thảo luận, các đại biểu Quốc hội đã tập trung thảo luận về chiến lược bảo vệ rừng; về đổi mới công tác giáo dục, y tế, văn hóa trong tình hình mới./.

PV



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Giấy phép số: 136/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 17/3/2022.

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com