Ngày 4-11, kỳ họp thứ 10, Quốc hội (QH) khóa XIII bước vào ngày làm việc thứ 13. Buổi sáng, các đại biểu QH làm việc tại hội trường nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Đấu giá tài sản; nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) và thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo luật này. Buổi chiều, QH nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Báo chí (sửa đổi); thảo luận về đánh giá kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) giai đoạn 2011-2015, xây dựng và đề xuất chủ trương đầu tư CTMTQG, giai đoạn 2016-2020.
Cần bổ sung những quy định về thống kê ngoài Nhà nước
Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Đấu giá tài sản nêu rõ: Dự thảo Luật quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục đấu giá tài sản, đấu giá viên, doanh nghiệp đấu giá tài sản, thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu giá tài sản, xử lý vi phạm, hủy kết quả đấu giá, bồi thường thiệt hại và quản lý Nhà nước về đấu giá tài sản. Dự thảo Luật không áp dụng đối với việc đấu giá tài sản Nhà nước ở nước ngoài và chứng khoán. Dự án Luật xây dựng trình tự, thủ tục đấu giá tài sản áp dụng thống nhất cho các loại tài sản đấu giá trên cơ sở kế thừa, luật hóa các quy định còn phù hợp của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP; khắc phục những hạn chế, bất cập của hoạt động đấu giá tài sản hiện nay, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan; nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp, tăng cường trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm nghề nghiệp của đấu giá viên, doanh nghiệp đấu giá tài sản; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Thẩm tra dự án Luật này, Ủy ban Kinh tế của QH cơ bản nhất trí với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết ban hành Luật Đấu giá tài sản nhằm góp phần hoàn thiện, thống nhất khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đấu giá tài sản; khắc phục những bất cập hiện nay và bảo đảm tính pháp lý đồng bộ với các luật có liên quan. Việc ban hành Luật Đấu giá tài sản nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng yêu cầu về xã hội hóa và tính chuyên nghiệp trong hoạt động đấu giá tài sản. Đa số ý kiến đề nghị QH xem xét, cho ý kiến về dự án Luật này tại kỳ họp thứ 10 và xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 11 (tháng 3-2016), để Luật sớm có hiệu lực, kịp thời giải quyết những vướng mắc hiện nay.
Sau khi nghe Báo cáo của Ủy ban TVQH tiếp thu, chỉnh lý, giải trình dự án Luật Thống kê (sửa đổi), các đại biểu QH đã thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật này. Theo đó, một trong những nội dung được nhiều đại biểu quan tâm là hoạt động thống kê ngoài Nhà nước. Các đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình), Bùi Sỹ Lợi (Thanh Hóa) và một số đại biểu khác cho rằng, thống kê ngoài Nhà nước rất cần được tạo điều kiện để phát triển; tuy nhiên cũng rất cần được quản lý, giám sát chặt chẽ. Nhưng, dự thảo Luật chưa đưa ra được những quy định cụ thể, khoa học để có thể giám sát đầy đủ hoạt động thống kê ngoài Nhà nước. Vì vậy, Ban soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung những quy định về tiêu chuẩn của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thống kê; quyền, nghĩa vụ khi công bố số liệu thống kê; trách nhiệm báo cáo với cơ quan quản lý Nhà nước; điều kiện để có thể hoạt động thống kê… Nếu các quy định nêu trên không được xây dựng đồng bộ thì thống kê ngoài Nhà nước sẽ phát triển tự phát, không chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, có đại biểu đề nghị, vì thống kê là một lĩnh vực phức tạp, cho nên thống kê ngoài Nhà nước trước khi công bố số liệu thống kê nếu có nhu cầu thì sẽ được các cơ quan chức năng Nhà nước thẩm định để bảo đảm tính chính xác…
Mở rộng đối tượng được thành lập cơ quan báo chí
Đầu giờ làm việc buổi chiều, QH nghe Bộ trưởng TT và TT Nguyễn Bắc Son trình bày Tờ trình về dự án Luật Báo chí (sửa đổi). Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) gồm 6 chương với 59 điều, trong đó, có 30 điều xây dựng mới, 29 điều sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Báo chí hiện hành.
Báo cáo thẩm tra dự án Luật này nêu rõ, điểm mới của dự thảo Luật so với Luật hiện hành là cụ thể hóa chương quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí theo tinh thần Hiến pháp; mở rộng và quy định cụ thể đối tượng được thành lập cơ quan báo chí; quan tâm đến kinh tế báo chí; thừa nhận và cụ thể hóa phạm vi, lĩnh vực và nội dung liên kết trong tất cả các loại hình báo chí; bổ sung một số quy định mới về tổ chức báo chí. Dự thảo Luật cũng lựa chọn luật hóa những quy định trong các văn bản dưới luật về thông tin trên báo chí, thẻ nhà báo, văn phòng đại diện, phóng viên thường trú… đã áp dụng ổn định trong thực tiễn hoạt động báo chí làm tăng tính cụ thể và khả thi của Luật.
Báo cáo thẩm tra cho biết, dự thảo Luật còn một số bất cập cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn chỉnh. Về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí (Chương II), Điều 25 Hiến pháp quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí... Tuy nhiên, tên Chương II dự thảo Luật (Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí) không chỉ rõ chủ thể của quyền tự do báo chí là công dân. Hơn nữa, các nội dung quy định tại chương này chưa rõ nội hàm và còn trùng lặp. Về mô hình hoạt động và kinh tế của cơ quan báo chí (Điều 24), thực tiễn cho thấy hiện còn quá nhiều cơ quan báo chí do các cơ quan Nhà nước thành lập và bao cấp kinh phí hoạt động, làm tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Về cung cấp thông tin cho báo chí (khoản 3 Điều 37) dự thảo Luật quy định: “Cơ quan báo chí và nhà báo có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng Viện KSND, Chánh án TAND cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”. Đa số ý kiến cho rằng, việc bảo vệ nguồn tin của báo chí là vô cùng quan trọng đối với người làm báo. Thực tế hiện nay, loại tội phạm nghiêm trọng rất phổ biến và đa dạng. Nếu quy định như dự thảo Luật sẽ gây khó khăn cho người làm báo trong việc bảo vệ nguồn tin. Do đó, đề nghị chỉ nên yêu cầu việc tiết lộ nguồn tin đối với “tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”.
Chất lượng, hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia chưa cao
Thảo luận về đánh giá kết quả thực hiện các CTMTQG giai đoạn 2011-2015, đại biểu Hoàng Việt Phương (Tuyên Quang) và một số đại biểu cho rằng, việc huy động vốn cho thực hiện các CTMTQG thấp và chưa hợp lý khi ngân sách Trung ương vẫn chiếm tỷ trọng lớn, các nguồn vốn khác đạt tỷ lệ thấp so với mức vốn đã được phê duyệt. Việc phân bổ và giao vốn CTMTQG còn chậm, giao không hết kinh phí; phân bổ còn phân tán, dàn trải, hiệu quả đầu tư chưa cao.
Đánh giá chất lượng và hiệu quả thực hiện một số CTMTQG chưa cao, đại biểu Lê Công Lĩnh (Long An) và nhiều đại biểu nhấn mạnh tính bền vững của nhiều CTMTQG rất hạn chế, chưa phát huy rõ nét hiệu quả sau đầu tư. Chỉ tiêu đạt được của một số chương trình còn thấp so với kế hoạch. Cơ chế quản lý, điều hành một số CTMTQG chưa thật hợp lý, vì vậy, cần lồng ghép hiệu quả các CTMTQG để khắc phục việc mục tiêu, nội dung của một số CTMTQG trùng lặp với nhiệm vụ chi thường xuyên.
Thảo luận về xây dựng và đề xuất chủ trương đầu tư CTMTQG giai đoạn 2016-2020, hầu hết ý kiến đại biểu tán thành việc tổ chức lại CTMTQG theo hướng thu gọn đầu mối, chỉ để lại hai chương trình là CTMTQG xây dựng NTM, CTMTQG giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, đại biểu Bùi Thị An (Hà Nội) và nhiều đại biểu cho rằng, mục tiêu, quy mô, phạm vi đầu tư của hai CTMTQG này là rất rộng, bao hàm hầu hết các lĩnh vực. Để phù hợp khả năng cân đối nguồn lực và khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả trong lĩnh vực đầu tư công trong giai đoạn vừa qua, Chính phủ cần rà soát phạm vi đầu tư đối với hai CTMTQG, tránh trùng lặp với các nội dung đầu tư thuộc lĩnh vực khác. Loại bỏ các hạng mục đầu tư chưa rõ tính cấp thiết, các nội dung đầu tư trùng với nội dung chi thường xuyên.
Sáng 5-11, tiếp tục chương trình làm việc kỳ họp thứ 10, các đại biểu QH làm việc tại hội trường, nghe Chủ tịch nước báo cáo về đề nghị phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO); nghe Tờ trình đề nghị QH phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới và thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Khí tượng thủy văn.
Thể hiện vai trò thành viên chủ động và có trách nhiệm của Việt Nam
Đọc Tờ trình về việc phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nêu rõ: Theo báo cáo của Chính phủ, Nghị định thư sửa đổi được thông qua theo Quyết định của Đại hội đồng WTO ngày 28-11-2014, theo đó Nghị định thư sửa đổi Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (Hiệp định WTO) để bổ sung Hiệp định tạo thuận lợi hóa thương mại (Hiệp định TF) vào Phụ lục 1A của Hiệp định WTO.
Hiệp định TF đã được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ba-li - In-đô-nê-xi-a tháng 12-2013. Nghị định thư sửa đổi sẽ được mở để các nước thành viên chấp thuận và sẽ có hiệu lực theo quy định tại khoản 3, Điều X của Hiệp định WTO (khi đủ 2/3 số nước thành viên thông qua).
Sau khi Nghị định thư sửa đổi có hiệu lực, Hiệp định TF sẽ được đưa vào phụ lục 1A của Hiệp định WTO (thứ tự đứng sau Hiệp định về các biện pháp tự vệ).
Hiệp định TF gồm 3 phần chính: Phần I: quy định về các biện pháp kỹ thuật; Phần II: Các điều khoản đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các quốc gia thành viên đang phát triển và kém phát triển; Phần III: Các thỏa thuận thể chế và các điều khoản quy định cuối cùng.
Về điều khoản bảo lưu, theo quy định của WTO, tất cả các thành viên đều chấp nhận toàn bộ nội dung Nghị định thư sửa đổi và Hiệp định TF. Chính phủ kiến nghị áp dụng trực tiếp toàn bộ Hiệp định đối với Việt Nam. Việc phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ thành viên của Việt Nam trong WTO.
Căn cứ Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, Chủ tịch nước trân trọng đề nghị QH xem xét, quyết định phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới.
Tờ trình đề nghị QH phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới đã đề cập tới một số vấn đề đặt ra với Việt Nam.
Cụ thể: Về cơ chế quản lý và phối hợp: Hải quan Việt Nam phải giải quyết giữa yêu cầu tạo thuận lợi thương mại và yêu cầu phối hợp các lực lượng để quản lý hiệu quả công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, quản lý tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, VSATTP của hàng hóa nhập khẩu.
Do vậy, cơ chế phối hợp, cơ chế trách nhiệm giữa các đơn vị, giữa các bộ, ngành, địa phương tham gia quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu phải được cải thiện hơn nữa. Về mặt pháp luật: Cơ bản các nhóm nghĩa vụ trong Hiệp định TF đã được quy định trong pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, còn hai điểm cần được thể hiện rõ, cụ thể hơn trong pháp luật Việt Nam đó là: (i) người thực hiện quyết định hành chính về hải quan được quyền yêu cầu Cơ quan Hải quan cung cấp cơ sở pháp lý và thực tiễn của quyết định hành chính này; (ii) việc kiểm tra tiêu chuẩn ATVSTP, đồ uống, thức ăn chăn nuôi tại cửa khẩu cần phải được thực hiện theo nguyên tắc quản lý rủi ro và phải thông báo công khai.
Thẩm tra nội dung này, Ủy ban Đối ngoại của QH nhất trí với Tờ trình của Chủ tịch nước và Báo cáo của Chính phủ về sự cần thiết phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi. Ủy ban Đối ngoại nhấn mạnh: Với tư cách là thành viên WTO, việc Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi là yêu cầu bắt buộc.
Việc sớm phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi để triển khai Hiệp định TF của WTO phù hợp với chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế; thể hiện vai trò thành viên chủ động và có trách nhiệm của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế nói chung và trong WTO nói riêng.
Đồng thời là cơ hội thuận lợi để Việt Nam tranh thủ các nguồn hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực thực thi sau khi Hiệp định TF có hiệu lực với tư cách là nước đang phát triển. Hiệp định TF có nội dung nhằm thúc đẩy và tạo thuận lợi cho hoạt động vận chuyển, thông quan, giải phóng hàng hóa xuất, nhập khẩu, quá cảnh tại các cửa khẩu cũng như các biện pháp hợp tác giữa hải quan các nước và hỗ trợ kỹ thuật thực hiện.
Những nội dung của Hiệp định phù hợp với mục tiêu cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về thương mại quốc tế mà Chính phủ đang thúc đẩy nhằm đẩy mạnh thương mại, khuyến khích xuất khẩu. Việc phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi này cũng là tiền đề để Việt Nam chuẩn bị thực hiện các cam kết có tiêu chuẩn cao về hải quan trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên minh Châu Âu (EVFTA).
Hoàn thiện dự thảo Luật Khí tượng thủy văn
Thời gian còn lại của phiên làm việc sáng nay, các đại biểu đã thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Khí tượng thủy văn.
Theo đại biểu Huỳnh Minh Hoàng (Bạc Liêu) mạng lưới trạm khí tượng thủy văn đã có lịch sử trên 100 năm xây dựng và phát triển đều phân bố rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam, đất liền cũng như ở hải đảo. Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn đã có nhiều đóng góp cho sự xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đại biểu cho rằng, dự thảo Luật quy định các nội dung về quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia; kế hoạch phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn chuyên dùng của bộ, ngành, địa phương, hành lang kỹ thuật và bảo vệ công trình khí tượng thủy văn cũng như quy định về yêu cầu quan trắc khí tượng thủy văn phải tuân theo tính chính xác, liên tục, thống nhất, đồng bộ theo tiêu chuẩn quy trình kỹ thuật chuyên môn là hoàn toàn cần thiết.
Tuy nhiên, trong xu hướng tự động hóa trong hoạt động quan trắc khí tượng thủy văn ngày càng phát triển, đại biểu nhấn mạnh càng phải nghiên cứu, phân hạng cho phù hợp với thực tế và bảo đảm tính khả thi. Đồng thời ưu tiên đầu tư phát triển nguồn lực, tăng kinh phí đầu tư phát triển mạng lưới thủy văn theo hướng hiện đại và đồng bộ, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa ngành Khí tượng thủy văn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quan trắc ngành Khí tượng thủy văn...
Về việc cấp phép cho tổ chức, cá nhân hoạt động cung cấp dịch vụ dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) nêu rõ: hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, đặc biệt là cảnh báo, dự báo thiên tai là một ngành, nghề đặc thù, đòi hỏi phải có trình độ khoa học và công nghệ chuyên ngành cũng như kinh nghiệm thực tiễn; sự chuẩn xác của thông tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn có tác động lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, ảnh hưởng tới quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tính mạng và sức khỏe của người dân.
Vì vậy, đại biểu nhấn mạnh hoạt động “Dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn” phải được xác định là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và cần được bổ sung trong Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện tại Phụ lục 4 của Luật Đầu tư năm 2014. Tuy nhiên, để sớm đưa Luật vào thực tiễn, đại biểu Đỗ Văn Vẻ nhất trí với việc quy định ngay trong Luật Khí tượng thủy văn Điều 54 bổ sung vào danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, phụ lục của Luật Đầu tư về dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn.
Về mạng lưới trạm khí tượng thủy văn, đại biểu Huỳnh Văn Tấn (Tiền Giang) đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối quy định của khoản 3 Điều 10 này để quy định của điều luật được chặt chẽ, tránh sự tùy tiện của tổ chức, cá nhân trong xây dựng, quản lý và khai thác các trạm khí tượng thủy văn theo mục đích riêng.
Như vậy khoản 3 Điều 10 sẽ là: “Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn chuyên dùng thực hiện quan trắc khí tượng thủy văn theo mục đích riêng do bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân xây dựng, quản lý và khai thác theo quy định của pháp luật”.
Qua thảo luận, một số vị đại biểu QH đề nghị làm rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn trong trường hợp dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn không chính xác, gây hậu quả nghiêm trọng; quy định rõ hơn về hệ thống quốc gia dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn. Ủy ban TVQH đã chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung quy định rõ nguyên tắc hoạt động khí tượng thủy văn.
Theo đó, quan trắc khí tượng thủy văn phải bảo đảm chính xác, liên tục, thống nhất; dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn phải bảo đảm đủ độ tin cậy; thông tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn phải được truyền, phát kịp thời, chính xác, đầy đủ và thể hiện như tại Điều 4 dự thảo Luật.
Đồng thời, dự thảo Luật quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn phải chịu trách nhiệm về bản tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn do mình ban hành tại khoản 2 Điều 21; quy định về tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn phải bảo đảm đủ độ tin cậy, được cập nhật thường xuyên, kịp thời theo diễn biến của hiện tượng khí tượng thủy văn tại khoản 3 Điều 21...
Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến của đại biểu QH, Ban soạn thảo sẽ hoàn thiện dự án Luật trình QH biểu quyết thông qua tại kỳ họp này.
Chiều qua, các đại biểu QH làm việc tại tổ, thảo luận dự án Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (sửa đổi); việc phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới./.
PV