Đường Võ Chí Công dài 1.130m, rộng 52m, có địa giới từ đường Thái Bình đến Quốc lộ 10, đoạn thuộc Khu đô thị Mỹ Trung.
Đồng chí Võ Chí Công (1912-2011) tên thật là Võ Toàn, quê ở làng Tam Mỹ, tổng Phú Quý, phủ Tam Kỳ, nay là thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân I, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho yêu nước, từ nhỏ, ông được giáo dục về tinh thần dân tộc và chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhiều chí sĩ và các phong trào đấu tranh chống thuế, đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân vùng Nam Trung Kỳ. Năm 1935, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và năm 1936 được cử làm Bí thư chi bộ ghép một số xã thuộc huyện Tam Kỳ. Đầu năm 1939, ông được cử làm Bí thư Huyện ủy Tam Kỳ. Tháng 3-1940, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam được thành lập và ông được bầu làm Bí thư. Tháng 10-1941, ông được cử vào Xứ ủy Trung Kỳ, được phân công phụ trách các tỉnh từ Đà Nẵng đến Phú Yên. Đầu năm 1942, chính quyền thực dân Pháp khủng bố phong trào cách mạng các tỉnh miền Trung, ông phải lánh vào các tỉnh cực Nam Trung Bộ, sau đó được điều về giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam lần thứ 2. Tháng 1-1943, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam. Tháng 10-1943, ông và một số cán bộ Tỉnh ủy bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Ông bị kết án tù chung thân, sau đó giảm xuống 25 năm tù, giam ở nhà lao Hội An, sau đó chuyển sang đi đày ở Buôn Ma Thuột. Tháng 3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Để mị dân, quân đội Nhật đã cho thả nhiều tù chính trị, trong đó có ông. Về Quảng Nam, ông được phân công vào Ban Cứu quốc của Tỉnh bộ Việt Minh Quảng Nam, làm Trưởng ban Khởi nghĩa, chuẩn bị cướp chính quyền. Với sự chủ động nhanh nhạy, khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Nam diễn ra ngày 17-8-1945 và là một trong 4 tỉnh giành được chính quyền sớm nhất cả nước. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông được cử làm Trưởng Ty Tư pháp tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Khi thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương, ông được cử làm Chính trị viên Trung đoàn 93. Đầu năm 1946, ông làm Phó Ban Tổ chức cán bộ và Thanh tra Quân khu V. Năm 1951, ông làm Bí thư Ban Cán sự Đông - Bắc Miên, Khu ủy viên Liên khu V. Tháng 3-1952, ông được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ 3. Đầu năm 1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, ông được phân công làm Phó Bí thư Trung ương Cục. Năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, phụ trách Bí thư Khu ủy Khu V, Chính ủy Quân khu V. Năm 1975, ông được cử làm Phó Ban Đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ ở miền Nam. Năm 1977-1979, ông là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp; năm 1976-1977 là Bộ trưởng Bộ Hải sản. Năm 1981, ông là đại biểu Quốc hội khóa VII, được cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội Đảng lần thứ V (3-1982) ông được bầu vào Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Thường trực Ban Bí thư. Từ tháng 6-1986, ông giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986) ông được bầu vào Bộ Chính trị. Từ năm 1987-1992, ông giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam.
Ông qua đời ngày 8-9-2011 tại Thành phố Hồ Chí Minh./.
Minh Tân