Nam Định có lượng mưa vào loại trung bình trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ, cao hơn vùng nằm sâu trong đất liền (Hà Nội), và thấp hơn vùng rìa núi đông nam chắn gió (Ninh Bình). Lượng mưa trung bình năm tại Nam Định là 1757 mm (tháng 9 cao nhất 347,7 mm), Văn Lý 1760 mm (tháng 9 cao nhất 395,3 mm). Các nơi khác trong đồng bằng Bắc Bộ: Hà Nội 1676 mm, Hưng Yên 1729 mm, Ninh Bình 1828 mm.
Có 2 vùng mưa nhiều nhất (trên 1800mm) là vùng Ý Yên và xung quanh Cổ Lễ. Còn vùng mưa ít nhất (dưới 1700mm) nằm gần giữa tỉnh, chạy từ phía nam thành phố Nam Định xuống sát sông Đáy. Về tổng lượng mưa trong thời kỳ nóng (từ tháng 5 đến tháng 10), vùng mưa nhiều nhất (1550mm) là xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường; còn vùng mưa ít nhất nằm ở phía tây nam huyện Nghĩa Hưng (dưới 1400mm). Tổng lượng mưa thời kỳ lạnh (từ tháng 11 đến tháng 4) thì giảm từ thành phố Nam Định (trên 280mm) đến sông Đáy (dưới 240mm).
Bản đồ Mưa. |
Qua tình hình mưa ngày lớn nhất, ta thấy tính chất trung gian của tháng 4 và tháng 11 rất rõ, đồng thời cũng nói lên tính chất ẩm của khí hậu Nam Định. Thời gian mưa trong năm có thể kéo dài đến 6 tháng, từ tháng 5 đến tháng 10. Ngoài ra các tháng có mưa ngày lớn nhất nằm trong mùa bão, do đó mưa bão có ý nghĩa lớn đối với tổng lượng mưa năm.
Lượng bốc hơi trung bình năm tại thành phố Nam Định là 836 mm, Văn Lý là 974 mm, tương ứng với các nơi khác ở đồng bằng Bắc Bộ. Lượng bốc hơi thời kỳ nóng (tháng 5 đến tháng 10) cũng tăng dần về phía biển, vùng xung quanh thành phố Nam Định dưới 500 mm, còn vùng sát biển trên 550 mm. Lượng bốc hơi thời kỳ lạnh (tháng 11 đến tháng 4) thì vùng quanh thành phố Nam Định vẫn thấp nhất (dưới 320 mm), nhưng vùng cao lại nằm về phía huyện Trực Ninh và Xuân Trường (trên 340 mm). Sự phân hóa theo thời gian, thấy lượng bốc hơi thấp nhất (39 - 40 mm) vào thời kỳ mưa phùn (tháng 2 đến tháng 3), trời đầy mây và độ ẩm tương đối cao. Vào các tháng nắng nhiều (5-6-7), nhiệt độ cao, lượng bốc hơi cũng cao nhất (85-105 mm), cực đại vào tháng 7 (105 mm). Vào mùa thu (các tháng 10, 11), lượng bốc hơi cũng tương đối cao (70-80 mm), mà nguyên nhân là thời tiết quang mây và hanh khô.
Lượng mây tổng quan của thành phố Nam Định là 7,5 và Văn Lý là 7,7. Thời gian nhiều mây đi từ tháng 1 đến tháng 8 (trên 7/10), nhiều nhất là các tháng 2, 3 (9,1- 9,2/10). Các tháng ít mây là 9, 10, 11, 12 (dưới 7/10), tức là vào mùa thu và đầu mùa đông, cực tiểu vào tháng 6 (6/10).
Về lượng mây thấp, trị số trung bình tại thành phố Nam Định là 5,9 và Văn Lý 5,8. Thời gian nhiều mây (7- 9/10) chỉ đi từ tháng 1 đến 4, cực đại vào tháng 2 - 3 (9/10), nhưng thời gian ít mây lại kéo dài từ tháng 5 đến tháng 12 (dưới 6/10), cực tiểu vào tháng 7 (3,6/10) là tháng nắng nóng nhất trong năm.
Độ ẩm tuyệt đối (áp suất riêng của hơi nước trong không khí tính theo mb) phụ thuộc chặt chẽ vào nhiệt độ. Do đó độ ẩm tuyệt đối cao vào mùa hạ (5 - 9), cực đại vào tháng 7 là tháng nóng nhất và đạt 33,7mb tại Văn Lý và 33mb tại thành phố Nam Định. Ba tháng mùa đông (12- 1- 2) có độ ẩm tuyệt đối thấp nhất, cực tiểu vào tháng 1 là tháng lạnh nhất và chỉ đạt 16,4mb tại thành phố Nam Định và 16,3mb tại Văn Lý, nghĩa là chỉ bằng một nửa tháng cao nhất, nói nên sự tương phản về nhiệt- ẩm giữa hai luồng gió mùa đông bắc và tây nam. Tính chất trung gian của các tháng 3- 4 và 9- 11 đều rõ với độ ẩm tuyệt đối trong khoảng 20 - 26mb.
Qua phân tích đặc điểm của từng yếu tố khí hậu, ta thấy các yếu tố đó đều có quan hệ với nhau và tựu trung là phản ánh nền tảng nhiệt - ẩm của khí hậu chí tuyến gió mùa ẩm và diễn biến mùa xuân - hạ - thu - đông tại tỉnh Nam Định.
Theo: Địa chí Nam Định