“La Văn Cầu” trên đoàn tàu không số

06:05, 06/05/2011

Để đến được ngày vinh quang 30-4, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, những người lính Bộ đội Cụ Hồ đã trải qua biết bao trận đánh, chiến đấu ngoan cường, dũng cảm hy sinh, góp phần làm nên những chiến công hiển hách của quân đội và nhân dân ta. Trên những con tàu không số vượt biển chi viện cho chiến trường miền Nam, có một người con của quê hương Nam Định được mệnh danh là “La Văn Cầu” trên biển…

Chặt chân để tiếp tục chiến đấu !

Kháng chiến chống Mỹ làm sôi sục lòng trai thời chiến, năm 1962, chàng thanh niên Phan Hải Hồ rời thôn Địch Lễ A (xã Nam Vân, TP Nam Định) lên đường tòng quân đánh giặc. Năm 1964, Phan Hải Hồ tình nguyện xin đi B. Bắt đầu từ đây, cuộc đời quân ngũ của anh gắn chặt với đoàn tàu không số mang nhiệm vụ vượt biển, chở hàng, vũ khí vào chi viện cho đồng bào, chiến sỹ miền Nam.

Nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam, giặc Mỹ điên cuồng trút bom đạn xuống đường Trường Sơn và tăng cường hoả lực tối đa ở những tuyến có khả năng chi viện, trong đó có đường biển. Nhưng trong bom đạn, trong sự rình rập của kẻ thù, những con tàu không số vẫn ra khơi, đưa hàng hoá, vũ khí đến những nơi mà đường Trường Sơn chưa tới được. Nhận nhiệm vụ trên tàu không số mang mật danh 69 (thuộc Đoàn 125, Bộ Tư lệnh Hải quân), Phan Hải Hồ đã tham gia 3 chuyến vận chuyển, lần nào cũng đưa hàng, vũ khí đến tận nơi, chưa một lần lỗi hẹn với tiền phương. Ngày 21-3-1966, tàu 69 được lệnh xuất phát, chở 72 tấn vũ khí đến Vàm Lũng (xã Tân An, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau). Đây chính là chuyến đi gian khổ, nguy hiểm nhất. Nhưng cũng chính từ gian khổ, nguy hiểm ấy đã bật sáng lên ý chí chiến đấu anh dũng, kiên cường của Phan Hải Hồ và đồng đội, tạo ra một “La Văn Cầu” thứ hai, làm kẻ thù thêm khiếp sợ, đồng đội thêm nể phục.

 

Ông bà Phan Hải Hồ vui vầy cùng con cháu.
Ông bà Phan Hải Hồ vui vầy cùng con cháu.

Ngay sau lệnh xuất phát, tàu không số mang mật danh 69 chở 72 tấn vũ khí và 16 cán bộ, chiến sỹ rời bến. Tuy nhiên, cả hai lần ra khơi đều phải quay về vì tàu chiến và máy bay địch theo dõi, chặn đánh. Đến ngày 15-4-1966, tàu nhận lệnh tiếp tục lên đường. Mất 8 ngày vượt sóng, luôn phải đối mặt với sự rình rập của kẻ thù, đến tối ngày 23-4-1966 tàu cập bến Vàm Lũng, Cà Mau. Sau khi bốc dỡ, giao hàng xong, các thuỷ thủ phát hiện chân vịt của tàu bị hỏng, chưa thể xuất bến trở về được. Thiết bị thiếu thốn, luôn phải đảm bảo bí mật an toàn tuyệt đối, mất hàng tháng trời mới nâng được con tàu nặng hàng trăm tấn lên để sửa chân vịt bằng 4 chiếc đèn khò thô sơ. Nhưng sửa xong tàu thì địch đoán biết tàu tiếp viện của ta đang ở trong rừng đước nên chúng cho tàu chiến, máy bay ngày đêm quần thảo, chốt chặn ở các cửa biển. Mấy lần Phan Hải Hồ và đồng đội đưa tàu ra đều không thành. Đến đêm ngày 31-12-1966, nhận định rằng địch mải đón Tết dương lịch, sẽ chểnh mảng canh phòng, được tin của điệp báo địa phương cho biết ngoài cửa Vàm Lũng yên tĩnh, Ban Chỉ huy đoàn 962, đơn vị “bến” có nhiệm vụ chuyên tiếp nhận tàu không số từ miền Bắc vào chi viện quyết định tổ chức để tàu 69 bất ngờ rời nơi ẩn nấp.

Ông Nguyễn Hữu Phước, nguyên Thuyền trưởng tàu 69, hiện đang sinh sống tại Thành phố Cần Thơ và ông Đỗ Duy Huyễn, nguyên y tá tàu 69 đang sống tại xã Hải Bắc (Hải Hậu, Nam Định) - những nhân chứng sống có mặt trên tàu 69 lúc đó nhớ lại: Từ 17h ngày 31-12-1966, tàu bắt đầu theo đường tìm ra cửa biển. Mọi việc tưởng như thuận lợi. Tuy nhiên, đến khi cách bờ khoảng 5km, vị trí phía sau báo cho thuyền trưởng biết có 1 tàu cao tốc của địch đang đuổi theo. Chúng chủ quan chạy cách tàu ta 50m và soi đèn vào tàu. Thuỷ thủ đoàn 69 được lệnh nổ súng. 3 khẩu B41, 2 khẩu 12ly7, 1 khẩu DKZ và các cỡ súng còn lại đồng loạt nhả đạn. Chiếc tàu cao tốc của địch bốc cháy sáng rực. Chỉ huy tàu 69 hội ý nhanh quyết định quay lại Vàm Lũng vì nếu đi tiếp địch sẽ vây đánh, tiêu diệt ta. Sau khi quay mũi, toàn bộ vũ khí, đạn dược được chuyển lên boong để sẵn sàng chiến đấu. Đến 22h30, địch dùng 2 máy bay thả pháo sáng từ Rạch Rấp đến Vàm Lũng, huy động tàu chiến, máy bay đánh chặn ở các cửa sông, huy động pháo từ bờ bắn vào hướng tàu 69. Trên biển, 5 tàu cao tốc trang bị hoả lực mạnh dàn hàng ngang truy đuổi, đạn vãi như mưa. Con tàu chi viện của ta đơn thương giữa vòng vây trùng điệp, đạn bắn sáng trời, cố tìm đường về bến để giữ tàu.

Cuộc chiến không cân sức! Nhưng chính ở đó bừng sáng lên ý chí kiên cường, bất khuất, không sợ hy sinh của người chiến sỹ Cộng sản! Thuỷ thủ Đoàn Văn Dĩ hy sinh. Mưa đạn của địch khiến nửa đội hình bị thương, nhưng không ai rời vị trí chiến đấu, quyết bám tàu đến cùng. Phan Hải Hồ trúng đạn, xương chân dập nát, chỉ còn lớp da dính ngoài, máu chảy lênh láng trên boong nhưng vẫn ôm súng bắn trả. Thấy thuyền phó Nguyễn Hấn đi tới, anh nói nhanh: “Anh giúp tôi chặt chiếc chân này, vướng quá… Khó chiến đấu!”. Trước đó, anh đã đề nghị y tá Đỗ Duy Huyễn cắt chân giúp nhưng đồng chí y tá vì thương đồng đội nên không dám cắt. Sau 2 lần đề nghị, thuyền trưởng quyết định cho cắt chân. Y tá Đỗ Duy Huyễn lao vào trong lấy con dao làm bếp. Ngay dưới bệ pháo tàu, trong làn mưa đạn của địch, chính trị viên Tăng Văn Huyễn dùng dao cắt rời phần chân bị dập nát của đồng đội để y tá ga-rô cầm máu. Cắn chặt răng vì đau đớn, trong khi được “phẫu thuật” bằng con dao làm bếp, khẩu 12ly7 trên tay Phan Hải Hồ vẫn đều đều nhả đạn. Không ngăn được nỗi cảm phục trào dâng trong lòng, chính trị viên tàu 69 Tăng Văn Huyễn hô to: “Nhân danh Bí thư chi bộ, tôi tuyên bố từ giờ phút này, đồng chí đảng viên dự bị Phan Hải Hồ trở thành đảng viên chính thức của Đảng”. “Các đồng chí, hãy bắn mạnh nữa, trả thù cho đồng chí Dĩ. Hãy chiến đấu dũng cảm như đồng chí Phan Hải Hồ!”...

Chỉ có ý chí quyết sống mái của Phan Hải Hồ và đồng đội mới có thể thắng được sức mạnh đến điên cuồng của hoả lực kẻ thù. Điều rất khó tin đã xảy ra! Tàu 69 vượt qua mưa bom, bão đạn để lọt được vào cửa Vàm Lũng và được đồng đội địa phương yểm trợ chạy sâu vào rừng đước. Tận lúc ấy, Phan Hải Hồ mới gục xuống trong vòng tay đồng đội, ngất đi vì mất máu, đuối sức.

Nặng tình đồng đội !

Nhật ký của cựu chiến sỹ tàu không số Phan Hải Hồ ghi: “Sau chiến tranh, tôi trở về quê. Quê tôi ở Nam Định. Khi đi là anh nông dân. Nay trở về lại làm anh nông dân. Nông dân chỉ biết bám đất mà sống. Biết yêu đất thì đất chẳng phụ... Chỉ còn một chân, tôi cố gắng đi cày, đi bừa. Và giúp vợ nuôi lợn...”. Trước đó, cuốn nhật ký cũng ghi kể về những điều xảy ra sau trận đánh diễn ra trên biển ngày 31-12-1966. Phan Hải Hồ và những đồng đội bị thương được đưa lên trạm xá Đoàn 962 điều trị. Riêng anh phải trải qua 3 lần phẫu thuật cắt chân và nhiều lần hôn mê, bất tỉnh vì đau đớn. Với những thành tích và hành động dũng cảm chiến đấu trong trận đánh đêm 31-12-1966, anh được cấp trên tuyên dương, tặng Huân chương Chiến sỹ giải phóng hạng 3. Tháng 10-1969, thuỷ thủ tàu không số 69 theo tàu 154 về Bắc. Tổng số cán bộ, chiến sỹ khi đi là 16 người, khi về chỉ còn 10 người. Tàu 69 hỏng nặng, phải để lại ở rạch Xẻo Già. Sau khi điều trị vết thương ổn định, anh xin về Đoàn 962 công tác, làm trợ lý cho đoàn trưởng, Anh hùng LLVTND Bông Văn Dĩa. Đến tháng 10-1975 đi an dưỡng do vết thương tái phát tại Đoàn 586 (Quân khu 3) đóng tại Lý Nhân (Hà Nam) và xin phục viên về gia đình vào tháng 4-1977...

Trong căn nhà nhỏ, giản dị ven đường 55 ở thôn Địch Lễ A (Nam Vân, Thành phố Nam Định), bà Nguyễn Thị Lân - vợ của người chiến sỹ được mệnh danh là “La Văn Cầu” trên biển năm xưa bồi hồi nhớ lại: “Tôi quê ở Nghệ An. Gặp ông ấy ở trại an dưỡng Lý Nhân. Vì cảm phục tấm gương chiến đấu anh dũng của ông ấy nên đem lòng yêu, chẳng ngại thương tật, khó khăn để thành vợ chồng!”. Tháng 10-1976 hai người tổ chức đám cưới. Sức khoẻ giảm sút do thương tật nhưng xóm làng thấy người thương binh hằng ngày vẫn quần quật cày bừa, cấy hái trên 8 sào ruộng khoán. Về nhà là giúp vợ băm bèo, nấu cám nuôi lợn. Quyết không để con cái thiếu đói, thất học, Phan Hải Hồ còn mở quán cắt tóc, bơm vá xe tại nhà để có thêm thu nhập... Khó khăn là như vậy, nhưng những lần vết thương cũ tái phát phải nằm viện hàng tháng trời rất tốn kém, nhiều người khuyên đi khám lại thương tật, ông chỉ cười: “Mình không đòi hỏi gì nữa. Đất nước còn nhiều khó khăn. Được trở về là may mắn hơn biết bao nhiêu đồng đội đã hy sinh ngoài chiến trường!”.

Cả chục năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, rồi băm bèo, nấu cám, bơm xe... hai vợ chồng mới tiết kiệm được trên 1 triệu đồng. Vừa lúc Nhà nước chi trả chế độ tiền huân chương được thêm 2 triệu đồng, nghe vợ đắn đo, suy tính nên gửi tiết kiệm hay sửa sang lại cái nhà đã quá dột nát, ông sững người im lặng mà không dám nói ra điều từ lâu đau đáu nung nấu. Nhưng rồi thấy chồng trăn trở, trằn trọc, vợ ông hiểu ra. Bà nói: Em biết anh muốn dùng số tiền ấy để làm việc gì rồi. Em đồng ý! Tiền cũng quý nhưng tình nghĩa còn quý hơn! Anh cứ dùng số tiền đó mà đi thăm những đồng đội còn nằm lại chiến trường. Em biết lâu nay anh vẫn bứt rứt vì chuyện đó... có điều kiện thì nên thực hiện. Nếu cái tâm mình được thanh thản thì ba triệu bạc đâu có đắt! Được vợ đồng tình, ngay hôm sau, trung tuần tháng 2-1999 ông lên đường đi Cà Mau, tới cửa Vàm Lũng, vào nghĩa trang thắp hương cho đồng đội, ngược rạch Xẻo Già thăm tàu 69 đang chìm dần giữa đầm bãi mênh mông... Trở về chuyến ấy, gia đình thấy ông vui lạ lùng, sức khoẻ tốt lên, làm việc hăng say hơn...

Những ngày cuối tháng 4-2011, Thành phố Nam Định rực rỡ cờ hoa chào mừng ngày giải phóng miền Nam - thống nhất đất nước 30-4. Người chiến sỹ được mệnh danh là “La Văn Cầu” trên biển của đoàn tàu không số năm xưa giờ đã tròn 70 tuổi. Ông kể cho tôi chuyện đất chẳng phụ người, đời chẳng phụ kẻ cần lao nên cuộc sống gia đình ông bây giờ chưa gọi là giàu nhưng cũng ổn định. Ba con lớn công ăn việc làm bảo đảm, gia đình yên ấm, con út đang học đại học. Không chỉ vui riêng chuyện nhà, ông còn khoe cả chuyện thôn Địch Lễ A, xã Nam Vân và Thành phố Nam Định quê hương ông kinh tế ngày càng phát triển đang được xây dựng đàng hoàng, to đẹp lên từng ngày... Mấy năm nay tuổi cao, vết thương tái phát, rồi cơn tai biến mạch máu não khiến ông không đi lại được nên tiếc lắm! Nhưng dứt khoát, ông sẽ cố khoẻ để ra Hải Phòng tham dự lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập đường Hồ Chí Minh trên biển (23-10-1961). Mới đây, đồng đội cũ vừa tặng ông chiếc xe lăn để ông có thể thực hiện được nguyện vọng ấy... Ánh mắt người cựu binh anh dũng trong chiến đấu, nặng tình giữa đời thường sáng lên khi kể với tôi về những niềm vui ấy!

Bài và ảnh: Hoàng Long



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Giấy phép số: 136/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 17/3/2022.

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com