Tại tỉnh ta số đối tượng trong độ tuổi vị thành niên, thanh niên (VTN, TN) chiếm tỷ lệ khoảng 20% dân số, trong đó phần lớn chưa có sự hiểu biết hoặc hiểu rất ít về kiến thức CSSKSS/KHHGĐ trước khi kết hôn. Do đó không ít VTN, TN bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD) dẫn đến vô sinh hoặc nạo phá thai ngoài ý muốn trước khi xây dựng gia đình.
Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân cho vị thành niên và thanh niên tại xã Tân Khánh (Vụ Bản). Ảnh: Do cơ sở cung cấp |
Từ năm 2003, tỉnh ta được chọn làm điểm thực hiện dự án tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân tại Thị trấn Gôi và xã Đại Thắng (Vụ Bản). Thành công từ việc chỉ đạo mô hình điểm ở huyện Vụ Bản là tiền đề giúp tỉnh ta tiếp tục xây dựng và thực hiện mô hình ở 37 xã của 9 huyện, thành phố giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010 và 33 xã của 9 huyện, thành phố trong 2 năm 2011 và 2012. Đề án được triển khai với các hoạt động: Xây dựng mạng lưới cung cấp thông tin, tư vấn dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ; tập huấn kỹ năng tư vấn và cung cấp dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ cho cán bộ quản lý và tổ chức triển khai mô hình; tổ chức tuyên truyền, vận động và giáo dục về SKSS/KHHGĐ cho các đối tượng thụ hưởng đề án. Năm 2012, cùng với việc duy trì các hoạt động của đề án tại 33 xã, Chi cục Dân số - KHHGĐ tỉnh còn tổ chức tập huấn cho Ban quản lý đề án các cấp, tập huấn cho đội ngũ tuyên truyền viên cơ sở. Tại các huyện, duy trì hoạt động của các CLB, nhóm đồng đẳng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn cho các đối tượng là VTN, TN chuẩn bị kết hôn trên hệ thống đài phát thanh, truyền thanh từ huyện đến cơ sở, qua đội ngũ tuyên truyền viên, CTV dân số...; cấp phát hơn 45.000 tờ rơi các loại; tổ chức tư vấn và khám sức khoẻ cho 410 lượt người trong độ tuổi VTN, TN tại 5 xã; qua đó đã phát hiện 2 trường hợp u nang buồng trứng, 1 trường hợp máu nhiễm mỡ, 25 ca mắt cận thị, 1 ca mắt viễn thị, 4 ca cao huyết áp, 5 ca viêm amidan cấp, 1 ca viêm họng cấp, 6 ca sâu răng, 1 ca viêm mũi dị ứng. Sau gần 2 năm triển khai thực hiện, mô hình đã đạt được các yêu cầu đề ra. Việc tổ chức tư vấn và kiểm tra sức khỏe cho các đối tượng VTN, TN được tiến hành theo định kỳ; thường xuyên kiểm tra, phát hiện các trường hợp nghi ngờ mắc các bệnh LTQĐTD, các bệnh về nội tạng, sản khoa... Tổ chức tư vấn về tâm sinh lý lứa tuổi, phương pháp chăm sóc, vệ sinh cơ thể và CSSKSS, các dấu hiệu nhận biết có thai, phương pháp tránh thai, cách phòng chống bệnh LTQĐTD, đặc biệt là phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS. Các buổi tư vấn có thể là tư vấn trực tiếp cho đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có thể là buổi nói chuyện chuyên đề, thu hút số lượng lớn VTN, TN tham gia. Qua các buổi tư vấn, các đối tượng có chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, thái độ và hành vi trong CSSKSS; đã mạnh dạn trao đổi, thảo luận những vấn đề mà trước đây được coi là tế nhị, không nên nói ra, đồng thời đi khám sức khỏe định kỳ, khám sức khỏe trước khi kết hôn. Các bậc cha mẹ cũng ủng hộ, không cho rằng các vấn đề về CSSKSS là điều cấm kỵ, không nên nói đối với các đối tượng này. Bên cạnh đó, đề án triển khai đã cung cấp cho các đối tượng kiến thức về tình bạn, tình bạn khác giới và tình yêu; hôn nhân, gia đình; kiến thức về kế hoạch hoá gia đình, các phương pháp tránh thai hiện đại, kiến thức và kỹ năng làm mẹ, làm vợ để an toàn trong hoạt động tình dục trước, trong và sau khi xây dựng gia đình... Thông qua các buổi sinh hoạt, đội ngũ tuyên truyền viên còn cung cấp thêm cho các đối tượng các kiến thức, kỹ năng, giải đáp những thắc mắc thầm kín của đối tượng trong độ tuổi VTN, TN. Tuy nhiên, quá trình triển khai đề án vẫn gặp phải một số khó khăn như: Hiểu biết về CSSKSS, các bệnh LTQĐTD, HIV/AIDS của VTN, TN còn hạn chế; số lượng VTN, TN biến động theo năm học, mùa vụ lao động nên việc tổ chức sinh hoạt các CLB nhóm đồng đẳng theo định kỳ hằng tháng, tuyên truyền, tư vấn cho các đối tượng gặp khó khăn. Nhiều tuyên truyền viên còn yếu về kỹ năng hướng dẫn cho thành viên các nhóm đồng đẳng tổ chức sinh hoạt nhóm, CLB. Kinh phí từ chương trình mục tiêu còn hạn hẹp nên việc triển khai các hoạt động gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của địa phương.
Thực tế cho thấy, việc nhân rộng mô hình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân là hướng đi đúng, thiết thực. Đây là phương án đầu tư chiều sâu trong công tác dân số - KHHGĐ, nâng cao trách nhiệm xã hội của lứa tuổi VTN, TN trước khi kết hôn, tạo sự bền vững trong công tác dân số - KHHGĐ. Việc triển khai đề án đến năm 2015 là một giải pháp có tính chiến lược nhằm trang bị cho các đối tượng chuẩn bị kết hôn kiến thức, kỹ năng liên quan đến CSSKSS/KHHGĐ góp phần giải quyết những khó khăn trong công tác dân số - KHHGĐ trong giai đoạn hiện nay./.
Minh Thuận