Tờ “Washington Post” vừa đăng bài phân tích về chính sách kinh tế của Tổng thống Mỹ đắc cử Đô-nan Trăm của Phó Giáo sư Giép Cô-gan, chuyên gia về lĩnh vực kinh tế chính trị của Viện nghiên cứu các vấn đề công và quốc tế Oát-sơn, thuộc Đại học Brao, Mỹ.
Theo giáo sư, ông Trăm mới tuyên bố trên
Twitter rằng ông có ý định áp đặt 35% thuế đối với bất cứ doanh nghiệp Mỹ nào từ bỏ công nhân Mỹ, xây dựng nhà máy hoặc thuê nhân công ở một nước khác. Chính sách này sẽ là một sự thay đổi lớn so với kiểu chính sách kinh tế xem trọng thương nghiệp, tự do mà các tổng thống Mỹ trước đó đã thực hiện.
Việc chỉ định các chức danh đầu tiên cho thấy ông Trăm vẫn chưa quyết định về mục tiêu kinh tế. Nhà chiến lược hàng đầu của ông Trăm, Stê-phan Ban-nơn, tự coi mình là một người theo chủ nghĩa dân tộc. Ông Ban-nơn và Trăm cho rằng cả một hệ thống đang chống lại tầng lớp trung lưu Mỹ. Họ muốn hạn chế nhập cư và thương mại, tăng lương tối thiểu và tăng chi tiêu công vào cơ sở hạ tầng, tất cả là để tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Họ phản đối phương pháp tự do kiểu mới mà các doanh nghiệp, trí thức và tầng lớp chóp bu trong xã hội ủng hộ.
Việc ông Trăm bổ nhiệm một chuyên gia tài chính tại Phố Uên - Stíp-vơn Mu-chin - làm Bộ trưởng Tài chính và tỷ phú Uyn-bua Rốt làm Bộ trưởng Thương mại cho thấy sự kế tục chính sách coi trọng đồng tiền từ các chính quyền trước đây. Cam kết của ông Trăm trong việc giảm vai trò của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) và nới lỏng sản xuất năng lượng cũng cho thấy điều đó. Việc ông dàn xếp căng thẳng giữa nhóm cánh tả muốn giúp đỡ tầng lớp công nhân và nhóm bảo thủ tập trung ủng hộ chủ của họ cũng là một ẩn số.
|
Chuyên gia cho rằng chính sách của ông Trăm sẽ khiến kinh tế Mỹ và thế giới khó lường. Ảnh: AFP/TTXVN |
Nếu ông Trăm chuyển sang chủ nghĩa dân túy thì đó là một sự thay đổi lớn. Từ thời Tổng thống Ri-gân tới nay, cả đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ đều ủng hộ chủ nghĩa tự do kiểu mới, có nghĩa là chính sách kinh tế tập trung vào mở rộng tự do buôn bán. Chủ nghĩa tự do kiểu mới đã mang lại lợi nhuận chủ yếu cho giới giàu có, mở rộng thương mại quốc tế và giữ mức lạm phát thấp với tỷ lệ thất nghiệp vừa phải, nhưng lại tạo ra mức thu nhập thấp. Nó hầu như có lợi cho giai cấp công nhân và trung lưu ở châu Á hơn là ở nước Mỹ.
Một phần trong giải pháp của bộ đôi Trăm - Ban-nơn là quay lại thời kỳ chính sách thị trường coi trọng lao động của những năm 1950-1960. Ông Trăm có thể chưa đưa ra chính sách cụ thể nhưng ông ủng hộ nâng cao thu nhập tối thiểu, tăng chi tiêu chính phủ cho cơ sở hạ tầng và trả lương cho công nhân nghỉ phép. Ở điểm này, ông đã nhận được sự ủng hộ rộng lớn, kể cả của Thượng nghị sĩ Béc-ni Xan-đét.
Tuy nhiên, ông Trăm chỉ kêu gọi quay lại thời những năm 1960 nhưng lại phớt lờ lý do tại sao phương pháp hậu chiến tranh lại tan rã hồi những năm 1970. Chính sách coi trọng lao động chỉ là một nửa của cái vẫn được các học giả về quan hệ quốc tế gọi là “chủ nghĩa tự do” thời hậu chiến. Nửa còn lại là một hệ thống thương mại quốc tế mở nhằm tránh chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch vào những năm 1930.
Đội ngũ chuyên gia kinh tế của ông Trăm ít nhất cũng hiểu tại sao các chính sách thời kỳ hậu chiến lại tan rã. Đó là lý do tại sao một nửa trong kế hoạch kinh tế của họ lại là hạn chế thương mại, nhập cư để bảo vệ việc làm cho công nhân Mỹ. Có một điểm mà nhóm cố vấn của ông Trăm, từ Stê-phan Ban-nơn đến Uyn-bua Rốt đều nhất trí, đó là đóng cửa biên giới.
Nếu như biện pháp “đóng cửa biên giới” dẫn đến cuộc chiến tranh thương mại với Trung Quốc và các nước khác thì tình hình thế giới sẽ càng tồi tệ hơn. Chiến tranh thương mại có thể làm suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và tác động xấu tới mọi người dân.
Tóm lại, nếu ông Trăm vẫn quyết định đi theo con đường mới này, Mỹ sẽ phải chuẩn bị tiến hành một cuộc thử nghiệm mới trong chính sách kinh tế mà có thể đem lại những kết quả không thể lường trước đối với nền kinh tế Mỹ và thế giới./.
Theo Báo Tin Tức