Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân Việt Nam đều ấp ủ một tâm nguyện một lần trong đời được đến thăm viếng khu di tích lịch sử Đền Hùng, để tự tay mình thắp nén hương thơm ở bàn thờ Tổ - các Vua Hùng có công dựng nước. Câu ca “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba” lưu truyền từ bao đời chính là lời nhắc nhở mọi người dân đất Việt dù ở đâu cũng không được lãng quên cội nguồn dân tộc, để luôn nhớ rằng chúng ta sinh từ một bọc, cùng chung một Tổ tiên. Cứ mỗi độ tháng ba về trên các ngả đường về Đất Tổ hàng triệu bước chân của con Lạc, cháu Hồng lại nô nức hành hương về Đền Hùng, thành kính một niềm tin thiêng liêng trở về cội nguồn dân tộc. Từ nhiều năm nay tỉnh Phú Thọ đã tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng đúng với tầm vóc là lễ hội lớn của dân tộc.
Theo số liệu kiểm kê của Sở VH, TT và DL tỉnh Phú Thọ, toàn tỉnh có 326 di tích thờ Hùng Vương, vợ con, tướng lĩnh và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương trải rộng ở các địa phương trong tỉnh, trong đó Đền Hùng là trung tâm thực hành tín ngưỡng lâu đời nhất. Theo dòng chảy của thời gian, trải qua bao biến cố thăng trầm, di sản văn hóa của dân tộc vẫn trường tồn và ngày càng phát triển. Nếu lấy Đền Hùng làm tâm điểm và mở rộng ra xung quanh với bán kính vài chục km, ta thấy dày đặc các giá trị văn hóa phi vật thể và vật thể: Đó là kho tàng văn hóa dân gian với biết bao truyền thuyết lịch sử, tục hèm thờ cúng, nghi thức lễ hội, trò diễn hội làng... liên quan đến thời đại Hùng Vương được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Từ huyền thoại lịch sử về Cha Lạc Long Quân kết duyên cùng Mẹ Âu Cơ sinh ra đồng bào ta trong “Bọc trăm trứng”, đến những việc trọng đại quốc gia: chọn đất đóng đô, cầu người hiền tài giúp vua giúp nước đánh giặc ngoại xâm, chọn người kế vị, cầu mùa màng tốt tươi đến việc thường ngày: dạy dân cấy lúa, chăn tằm ươm tơ, làm bánh nấu mật, ca hát giao duyên... Mỗi một truyền thuyết đều gắn với một địa danh, một lễ hội cụ thể ở vùng Đất Tổ. Đến Phú Thọ, nghe các câu chuyện kể về thời các Vua Hùng, xem các di vật khảo cổ ta có thể hình dung một cách rõ nét về cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất, đánh giặc giữ làng và nhiều phong tục tập quán của ông cha ta từ buổi đầu dựng nước. Ngoài tín ngưỡng và lễ hội Đền Hùng, còn có những lễ hội dân gian rất đặc sắc gắn với các thời đại Hùng Vương liên quan tới Đền Hùng và vùng phụ cận của Đền Hùng: xã Hy Cương có tục thờ phồn thực nông nghiệp cầu mong sự sinh sôi qua việc thờ cúng “Đá Ông, Đá Bà” trên đỉnh núi Trọc; ngày 25-5 âm lịch, Hy Cương có lễ “Hạ điền”, diễn lại tích Vua Hùng cùng dân cấy lúa. Xã Chu Hóa và Hy Cương còn có chung tục lệ “Rước tiếng hú” và chạy “Tùng dí” vào đêm giao thừa; lễ hội “Rước Chúa Gái về nhà chồng” tổ chức vào ngày 15 tháng giêng âm lịch. Thanh Đình là một xã có nhiều lễ hội nhất của tỉnh Phú Thọ, ngay trong tháng giêng bắt đầu từ ngày mở cửa đình làm lễ “Rước giải” phản ánh cuộc sống của cư dân nông nghiệp với nghề chăn thả gia súc và đánh cá; ngày mồng 4 có lễ “Rước ông Khưu, bà Khưu” là nghi thức phồn thực cầu mong sự sinh sôi của con người và mùa màng; ngày 22 có lễ hội “Tế Thánh” theo tích Tản Viên đánh giặc; ngày 23: lễ hội “Hú cờ” theo tích Ngọc Hoa đi đón Sơn Tinh. Trong 5 vùng này còn có “Lễ hội đi săn”: phản ánh tục săn bắt của cư dân Việt cổ. Các làng xã khác ở vùng phụ cận Đền Hùng như Tứ Xã có lễ hội “Trò Trám”, Sơn Vi có hội “Cướp cầu”; Kim Đức có lễ hội “Hát Xoan” và tục gói bánh chưng, bánh dầy; Hùng Lô có tục rước kiệu về dự lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương; Thụy Vân có lễ hội “Cầu Đinh”; Minh Nông có lễ hội “Vua Hùng dạy dân cấy lúa”; phường Bạch Hạc có lễ hội “Bơi chải”, những hình thức sinh hoạt văn hoá trong hội đám của các làng xã xung quanh khu vực Núi Hùng thường gắn với các loại hình khác như: các trò diễn vui khoẻ, đua tài thi khéo, các trò múa và trình nghề, các trò diễn mang hình thức sân khấu dân gian, vui chơi có hội ném còn, hội đu tiên... Tiêu biểu là hội vật thôn Vĩnh Mộ (Cao Xá), xã Kinh Kệ, xã Cổ Tiết, hội phết Hiền Quan, hội cầu giỏ xã Vực Trường, hội gói, nấu bánh chưng xã Hùng Lô, giã bánh dầy Bạch Hạc... Tất cả lễ hội, trò diễn trên cho thấy vùng Đền Hùng, Thành phố Việt Trì, huyện Lâm Thao - miền đất trước ngã ba sông là một vùng hội tụ khá dày đặc các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, phản ánh buổi đầu bình minh của lịch sử dân tộc. Với 57 địa điểm khảo cổ đã được khai quật và nghiên cứu ở Phú Thọ, các nhà khoa học đã chứng minh rằng khu vực Đền Hùng cách đây hàng nghìn năm đã là địa bàn tụ cư của người Việt cổ và quá trình này diễn ra liên tục. Điều đó thể hiện qua các dấu tích văn hóa khảo cổ để lại kế tiếp từ văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn với đủ các loại hình di chỉ cư trú, mộ táng, công xưởng, kho tàng... Ngay tại vùng ngã ba Hạc Việt Trì là nơi được coi “Tụ thủy, tụ nhân” đặc biệt có di chỉ Làng Cả mà theo sử cũ chép lại đây chính là kinh đô của nước Văn Lang cổ đại - Nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Tại một số địa điểm khảo cổ học xung quanh Đền Hùng đã tìm được những hiện vật đặc biệt quý hiếm đó là chiếc nha chương, trống đồng Hêgơ I có đường kính lớn nhất từ trước đến nay, được coi là vật thiêng tượng trưng cho quyền uy và địa vị của người thủ lĩnh quân chủ. Và khá nhiều hiện vật độc đáo khác như vuốt đá, bộ khóa đai lưng bằng đồng có 8 con rùa, rìu giáo, qua đồng... Có thể nói không nơi nào ở Việt Nam lại có mật độ dày đặc những hiện vật, dấu tích, huyền thoại, truyền thuyết, lễ hội, trò diễn... về các lĩnh vực đời sống thời đại Hùng Vương như ở Phú Thọ.
Ảnh: Internet |
Trong quá khứ Lễ hội Đền Hùng là sự tập hợp của các hoạt động thờ cúng vui chơi, ngày hội Đền Hùng được tổ chức long trọng in đậm dấu ấn trong tâm thức của người dân Phú Thọ và đồng bào cả nước. Đối với người Việt Nam Lễ hội Đền Hùng có một tầm quan trọng đặc biệt. Xa xưa ở Đền Thượng trong khu di tích lịch sử Đền Hùng tương truyền các Vua Hùng lập đàn tế trời và hạt thóc thần, các cụ cao niên ở xã Hy Cương thường vẫn gọi là “Thóc thờ”. Nghi thức thờ “Thóc thần” còn được bảo lưu trong tục thờ “Cụm lúa thần” cùng với nghi thức thờ “Sinh thực khí” ở thôn Trẹo, xã Hy Cương và ở xã Tứ Xã (huyện Lâm Thao)... Núi Nỏn trong khu di tích lịch sử Đền Hùng hiện nay vẫn còn hòn đá thờ hình cối xay gọi là đá Ông chồng, Bà chồng. Như vậy lễ hội nguyên thuỷ các làng xung quanh Núi Hùng là lễ hội của tín ngưỡng cư dân người Việt cổ trồng lúa nước. Thời phong kiến tự chủ các triều đại đã nối tiếp nhau tôn vinh việc thờ cúng các Vua Hùng, tu bổ, tôn tạo xây dựng khu di tích lịch sử Đền Hùng, đặc biệt là triều Nguyễn năm 1917 đã quy định ngày quốc lễ là ngày mùng 10-3 âm lịch hằng năm, định ra hội chính và hội lệ, cấp tiền và gạo nếp thơm cho xã Hy Cương sở tại lo việc thờ phụng các Vua Hùng trong kỳ Giỗ Tổ. Trong những năm cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI Đền Hùng và Lễ hội Đền Hùng đã được Đảng, Nhà nước ta tôn vinh ở tầm cao mới, thể hiện ở các văn bản quy định tổ chức Đền Hùng theo nghi thức cấp Nhà nước vào các năm chẵn, cấp tỉnh vào các năm lẻ cùng các quy định về tôn tạo bảo vệ di tích Đền Hùng, rừng quốc gia Đền Hùng... sao cho xứng tầm là di tích xếp hạng đặc biệt của quốc gia, để Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương thực sự là ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam.
Trở lại Lễ hội Đền Hùng từ những nét đẹp nguyên sơ ở các hội làng vùng đất Tổ nhất là các lễ hội vùng phụ cận Đền Hùng, ngành Văn hóa đã chọn lọc đưa vào chương trình tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng trên nguyên tắc bảo đảm tính dân tộc và hiện đại với quy mô ngày càng mở rộng để đáp ứng tâm nguyện của đồng bào cả nước mỗi khi về Đền Hùng. Có khá nhiều hạng mục công trình ở trong khu vực di tích đã được mở rộng, nâng cấp, bổ sung để tạo một không gian lớn theo Quy hoạch mở rộng khu di tích lịch sử Đền Hùng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 48/QĐ-TTg ngày 30-3-2004 để tổ chức nhiều hoạt động văn hóa thể hiện những nét đẹp tiêu biểu của các vùng văn hóa Việt Nam: Vùng Kinh Bắc, vùng miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Nam Bộ trong những ngày Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng.
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng trước đây, hiện nay và mai sau luôn là điểm tựa tâm linh của muôn người đất Việt. Hành hương về Đền Hùng là niềm tin thiêng liêng và sâu lắng trở về với cội nguồn dân tộc, điều đó làm cho chúng ta thêm tự hào về truyền thống và lịch sử văn hóa tổ tiên cha ông để lại, càng phải nghĩ suy đến trách nhiệm tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa để làm cho nó có sức sống mãnh liệt lâu bền không chỉ cho hôm nay mà cả muôn đời sau như lời Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã dạy “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”./.
Trần Văn Quang
Sở VH, TT và DL tỉnh Phú Thọ