Nhà thơ Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, sinh năm 1918, quê ở thôn Thiện Vịnh, xã Cộng Hòa (Vụ Bản). Mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, ông học ở nhà với cha là ông đồ Nguyễn Đạo Bình; sau khi cha mất được cậu ruột là ông đồ Bùi Trình Khiêm mang về nuôi dạy. Hơn 10 tuổi, ông theo anh trai là Trúc Đường ra Hà Đông (Hà Nội) kiếm sống. Từ năm 1946-1954, ông tham gia kháng chiến ở Nam Bộ rồi tập kết ra Bắc. Năm 1958, ông về sống ở Nam Định, tiếp tục sáng tác cho đến khi mất (năm 1966). Làm thơ từ năm 13 tuổi, suốt 35 năm sáng tác, ông đã để lại cho đời 17 tập thơ. Tiêu biểu như: “Lỡ bước sang ngang”, “Tâm hồn tôi”, “Hương cố nhân”, “Một nghìn cửa sổ”, “Người con gái ở lầu hoa”, “Mười hai bến nước”, “Mây Tần”, “Tỳ bà truyện”…
Các nhà phê bình văn học gọi ông là nhà thơ của hồn quê, nhà thơ chân quê, ca sĩ của đồng ruộng. Bởi tấm lòng, tình cảm gắn bó máu thịt của ông với quê hương luôn hiện hữu trong những câu thơ, bài thơ đầy ắp những hình ảnh gần gũi, thân quen về cuộc sống nơi thôn dã. Từ lũy tre làng, giậu mùng tơi, giàn trầu, hàng cau liên phòng đến lối ngõ trải rơm, màu hoa đại, hương gạo tám thơm, men nồng rượu nếp… tất cả đều đẹp đẽ, nên thơ qua cái nhìn, cách nghĩ và cảm xúc của ông. Trên nền những bức tranh quê tươi sáng, thơ mộng ấy, cuộc sống sinh hoạt của người thôn quê được ông khắc họa thật sinh động, rõ nét. Đến với thơ ông, người đọc như được sống trong không gian văn hóa làng quê Bắc Bộ đậm đà bản sắc với những ngày Tết cổ truyền, hội làng, đám hát thâu đêm, những phong tục tập quán, trò chơi, nếp sống xa xưa. Đó là hương vị truyền thống trong “Tết của mẹ tôi”: “Sáng nay mồng một sớm tinh sương/ Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường/ Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi/ Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương”. Đó là cảnh một buổi đi lễ chùa trong “Xuân về”: “Trên đường cát mịn một đôi cô/ Yếm đỏ, khăn thâm trẩy hội chùa/ Gậy trúc dắt bà già tóc bạc/ Tay lần tràng hạt, miệng nam mô”. Khi vẽ nên những cảnh quê, tình quê mộc mạc, thuần khiết, ngôn ngữ thơ ông cũng giản dị, tự nhiên như lời nói của người dân quê trong đời sống dân dã, vậy mà vẫn làm chúng ta xao xuyến, bâng khuâng. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã thật chí lý khi cho rằng: “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. Người đọc mọi lứa tuổi thuộc thơ Nguyễn Bính, bởi nhiều câu thơ của ông không chỉ gợi được cảnh quê mà còn diễn tả chân thành và xúc động hồn quê bình dị mà thiêng liêng, sâu nặng. Có những bài thơ của ông đã trở thành bài hát ru con, ru cháu, được các bà, các mẹ ngâm nga bên cánh võng để thổ lộ, giãi bày nỗi niềm của chính mình. Nguyễn Bính yêu tha thiết quê hương nhưng cũng là người có nhiều năm tha hương trong cuộc đời. Và như một lẽ tự nhiên, càng xa cách, nỗi nhớ và tình yêu quê hương càng đau đáu, khắc khoải. Nhiều bài thơ ông viết về những người mẹ quê nghèo, những người chị đảm đang, nhân hậu như một phần hình bóng quê hương lam lũ mà thắm đượm nghĩa tình. Nhà thơ xót xa trước nỗi cô đơn của người mẹ: “Xóm Tây bà lão lưng còng/ Có hai con gái lấy chồng cả hai/ Gió thu thở ngắn, than dài/ Bà đem áo rét phơi ngoài cửa thưa”. Giữa biết bao bóng người trên sân ga, nhà thơ vẫn nhìn thấu nỗi lòng quặn thắt của người mẹ đưa tiễn con đi trấn ải xa: “Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng/ Lưng còng đổ bóng xuống sân ga”. Ông sẻ chia nỗi niềm với người mẹ gắng gượng vui lo cho con gái đi lấy chồng, để rồi khi còn lại một mình mới vỡ òa những buồn tủi: “Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc/ Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi”. Và nhà thơ khiến ta nhói lòng khi viết về chính cha mẹ mình: “Con đi mười mấy năm trời/ Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương/ Thày đừng nhớ, mẹ đừng thương/ Cầm như đồng kẽm, ngang đường bỏ rơi”. Riêng ở lĩnh vực thơ tình, Nguyễn Bính cũng có một vị trí xứng đáng, một giọng thơ đặc biệt. Đúng như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Ngòi bút Nguyễn Bính có biệt tài diễn tả những mối tình quê thơ và mộng”. Ta bắt gặp trong thơ ông những mối tình trong sáng của trai, gái nơi thôn quê nảy nở từ những ngày hội xuân, những đêm hát chèo, những sinh hoạt đời thường với rất nhiều cung bậc cảm xúc. Có những e ấp, ngại ngùng của cô gái quê vốn quen sống khép kín bên khung cửi: “Lòng thấy giăng tơ một mối tình/ Em ngừng thoi lại giữa tay xinh/ Hình như hai má em bừng đỏ/ Có lẽ là em nghĩ đến anh”. Có những hò hẹn, giận hờn, trách móc: “Chờ mãi anh sang, anh chẳng sang/ Thế mà hôm nọ hát bên đàng/ Năm tao, bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”. Có những nhớ mong, tơ tưởng: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ, mười mong một người/ Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Có những tiếc nuối khi tình yêu dang dở: “Từ ngày cô đi lấy chồng/ Gớm sao có một quãng đồng mà xa/ Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà, thấy bên nhà vắng teo”. Và có cả những mãnh liệt, dâng trào như cảm xúc không thể kìm nén: “Hồn anh như hoa cỏ may/ Một chiều cả gió bám đầy áo em”… Những tình cảm yêu thương trong thơ Nguyễn Bính dù là tình yêu đôi lứa hay tình yêu dành cho cha mẹ, gia đình, làng xóm đều thể hiện sự chân thành của cảm xúc nên dễ đi vào lòng người.
Tài năng của nhà thơ Nguyễn Bính đã được ghi nhận, tôn vinh bằng những đánh giá đầy trân trọng của bạn thơ, các nhà phê bình văn học và chính xác hơn hết là lòng yêu mến của bạn đọc nhiều thế hệ. Trải qua thời gian với biết bao thay đổi, những vần thơ của ông vẫn được nhắc đến bởi nó bồi đắp cho mỗi chúng ta lòng yêu thương, gợi nhắc chúng ta không quên quê hương, nguồn cội./.
Lam Hồng