Trong 2 năm 2020 và 2021, dịch COVID-19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng nặng nề tới thị trường lao động và thị trường xuất khẩu lao động của tỉnh. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương, của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, các cấp, các ngành trong tỉnh đã thực hiện hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa ổn định phát triển sản xuất, kinh doanh. Qua đó, thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn.
Công ty TNHH Gang Wei Việt Nam (KCN Hòa Xá) tạo việc làm, thu nhập ổn định cho trên 400 lao động. |
Theo báo cáo của Sở LĐ-TB và XH, toàn tỉnh có 1,876 triệu người, trong đó, khu vực thành thị trên 380 nghìn người (chiếm 20,27%); khu vực nông thôn hơn 1,496 triệu người (79,73%). Số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hơn 1,022 triệu người; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 74,7%. Toàn tỉnh hiện có 4 khu công nghiệp (KCN) đang hoạt động, gồm KCN Hòa Xá, KCN Bảo Minh (đã lấp đầy 100%), KCN Mỹ Trung (lấp đầy 28,39%), KCN Dệt may Rạng Đông (lấp đầy khoảng 10,63%). Tổng số lao động hiện đang làm việc tại các KCN là khoảng 4,8 vạn người với mức thu nhập bình quân đạt 6,5 triệu đồng/người/tháng.
Đồng chí Lại Hà Nam, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh (Sở LĐ-TB và XH) cho biết: Nhu cầu tuyển dụng của 475 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đăng ký qua Trung tâm 6 tháng đầu năm 2022 là 57.157 việc làm trống (tăng 38.567 việc làm trống so với cùng kỳ năm 2021). Nhu cầu tuyển dụng cụ thể theo vị trí việc làm, các doanh nghiệp tập trung tuyển nhiều ở nhóm “nhân viên” với 56.898 việc làm trống, chiếm tới 99,55%, bởi sau tuyển dụng, các doanh nghiệp sẽ tiến hành đào tạo nghề cho người lao động phù hợp với dây chuyền sản xuất của đơn vị. Về trình độ chuyên môn, chủ yếu “không yêu cầu bằng cấp” với 52.925 việc làm trống, chiếm 92,60%; nhu cầu tuyển lao động có trình độ đại học trở lên có 226 việc làm trống, chiếm 0,40%.
Về “cung lao động”, trong tổng số 4.857 lao động đăng ký tìm việc tại Trung tâm, nhu cầu tìm việc tập trung ở nhóm vị trí “thợ may, thêu và các thợ có liên quan” với 2.248 lao động, chiếm 46,28%; trong khi đó, nhu cầu doanh nghiệp tuyển dụng ở vị trí này tới 34.568 việc làm trống, chiếm 60,48%. Tiếp theo là vị trí “nghề khác”, có 795 lao động ứng tuyển, chiếm 16,37%, nhưng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp chỉ có 19 vị trí việc làm trống, chiếm 0,03%; “thợ lắp ráp và vận hành máy” có 473 người lao động ứng tuyển, chiếm 9,74%, trong khi doanh nghiệp cần tuyển 7.230 người, chiếm 12,65%. Vị trí “nhân viên bán hàng” có 342 lao động ứng tuyển thì doanh nghiệp có nhu cầu tuyển 927 người.
Đồng chí Lại Hà Nam thông tin thêm: có sự chênh lệch lớn giữa cung - cầu lao động phân khúc phổ thông khi tổng số nhu cầu tuyển lao động không yêu cầu chuyên môn kỹ thuật là 52.925 việc làm trống, trong khi đó số lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật đi tìm việc chỉ có 3.582 người. Dự kiến trong năm 2022, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn thiếu khoảng 18-20 nghìn lao động, chủ yếu là lao động phổ thông các ngành may mặc, giày da, điện tử, trong đó nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong các KCN của tỉnh là khoảng 9.000 lao động (trong đó thiếu hụt lao động phổ thông ở ngành dệt may là 5.300 lao động, tương đương 58,9 %).
Để tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh, tranh thủ thời cơ “dân số vàng”, hình thành nguồn nhân lực trực tiếp có chất lượng, hiệu quả và kỹ năng nghề cao, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Sở LĐ-TB và XH đã tham mưu trình UBND tỉnh ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp (GDNN) giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 2239/QĐ-TTg ngày 30-12-2021 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, đến năm 2025: Bảo đảm quy mô, cơ cấu ngành, nghề đào tạo cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; chất lượng đào tạo của một số trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, trong đó một số nghề tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 30%.
Đến năm 2030: Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả GDNN nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cho quốc gia đang phát triển, có công nghiệp hiện đại; chủ động tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế; một số trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, trong đó một số nghề tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20; góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35-40%. Tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thông tin đạt 90%; thu hút 50% học sinh tốt nghiệp THCS và THPT vào hệ thống GDNN. Sắp xếp, tổ chức mạng lưới cơ sở GDNN theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, dễ tiếp cận, đa dạng về loại hình, hình thức tổ chức, phân bổ hợp lý về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu vùng miền, đủ năng lực đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề nghiệp, nhất là nhân lực chất lượng cao. Khuyến khích phát triển cơ sở GDNN tư thục, có vốn đầu tư nước ngoài, cơ sở GDNN trong doanh nghiệp.
Trên địa bàn tỉnh có 38 cơ sở GDNN, gồm: 6 trường cao đẳng, 5 trường trung cấp, 15 trung tâm GDNN và 12 cơ sở tham gia hoạt động GDNN; trong đó có 2 trường cao đẳng, 2 trường trung cấp công lập thuộc tỉnh quản lý. Hàng năm, học sinh, sinh viên tốt nghiệp hệ trung cấp, cao đẳng ra trường có việc làm ngay đạt trên 90%, mức lương bình quân từ 5-7 triệu đồng/tháng; có những ngành nghề học sinh chưa nhận bằng tốt nghiệp, doanh nghiệp đã đến tận trường tiếp nhận vào làm việc (như các nghề hàn, may, công nghệ ô tô...). Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn được triển khai tích cực và đạt 100% kế hoạch; tỷ lệ sau học nghề có việc làm ổn định đạt trên 85%. Đây là nguồn cung lao động ổn định cho các doanh nghiệp trong tỉnh phục hồi sản xuất sau đại dịch COVID-19./.
Bài và ảnh: Việt Thắng