Thực hiện chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành động giai đoạn 2011-2015 của tỉnh với mục tiêu tổng quát: “Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân”.
|
Bệnh viện Mắt tỉnh thực hiện dự án khám, mổ mắt miễn phí cho người cao tuổi. |
Qua 5 năm thực hiện, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; sự quyết tâm, nỗ lực của đội ngũ cán bộ làm công tác dân số các cấp tỉnh ta đã tổ chức triển khai thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu chủ yếu trong công tác DS-KHHGĐ hằng năm. Bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ các cấp từng bước hoạt động nền nếp, hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ được chú trọng, nhất là cán bộ tuyến cơ sở. Cơ chế quản lý thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về nâng cao năng lực quản lý tập trung nguồn lực cho cơ sở, chất lượng dịch vụ KHHGĐ; công tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền về DS-KHHGĐ được nâng cao tạo được sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, thái độ, hành vi của các cấp, các ngành và sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân đối với việc thực hiện chính sách DS-KHHGĐ của Đảng, Nhà nước. Công tác phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan truyền thông đại chúng các cấp được thực hiện kịp thời, chặt chẽ, tuyên truyền đầy đủ và sâu sắc các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ đến tận người dân. Với những nỗ lực đó, tỉnh ta đã đạt được những kết quả quan trọng trong công tác DS-KHHGĐ: Giảm tỷ suất sinh thô từ 15,46
o/
oo (năm 2011) xuống còn 14,59
o/
oo (năm 2015). Giảm tốc độ gia tăng dân số tự nhiên từ 9,76
o/
oo (năm 2011) xuống còn 9,24
o/
oo (năm 2015). Tỷ lệ sản phụ sinh con được cán bộ y tế chăm sóc từ 87% (năm 2011) tăng lên 95% (năm 2015). Tỷ lệ thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại từ 76,27% (năm 2011) lên 77,68% (năm 2015). Tỷ lệ điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản thân thiện cho vị thành niên và thanh niên từ 7 điểm (năm 2011) lên 16 điểm (năm 2015). Công tác triển khai các mô hình, đề án về nâng cao chất lượng dân số trong toàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực. Đề án Sàng lọc trước sinh, sơ sinh được triển khai và duy trì tại 229/229 xã, phường, thị trấn của 10 huyện, thành phố, đã phát hiện sớm và điều trị một số bệnh, tật bẩm sinh, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng giống nòi. Từ năm 2011 đến năm 2015, đã có 6.563 bà mẹ mang thai được sàng lọc trước sinh và 7.951 trẻ em được sàng lọc sơ sinh. Mô hình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân được triển khai tại 33 xã với mục tiêu nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hành chăm sóc sức khỏe sinh sản, KHHGĐ thông qua tư vấn và khám sức khỏe cho vị thành niên, thanh niên, từng bước góp phần nâng cao thể chất, trí tuệ, tinh thần cho vị thành niên và thanh niên. Đề án Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển tỉnh triển khai tại 3 huyện ven biển (Hải Hậu, Nghĩa Hưng và Giao Thủy) đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực về công tác dân số; người dân vùng biển được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, KHHGĐ một cách đồng bộ và có hiệu quả. Nhờ thực hiện có hiệu quả trong việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức, vận động người dân tham gia công tác DS-KHHGĐ tại địa phương, số người được thực hiện các biện pháp tránh thai, thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, KHHGĐ ngày một cao, mức sinh giảm và chất lượng dân số được cải thiện. Như vậy trong 5 năm, tỷ suất sinh thô bình quân hằng năm giảm khoảng 0,21
o/
oo. Tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh từng bước được kiểm soát và hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra (năm 2011 là 120 trẻ trai/100 trẻ gái, năm 2015 là 115 trẻ trai/100 trẻ gái, giảm 5 điểm phần trăm).
Để góp phần thực hiện tốt chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020, tỉnh ta xây dựng Kế hoạch hành động giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu: Nâng cao chất lượng dân số; hạn chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh; đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về quy mô dân số, cơ cấu dân số; triển khai hiệu quả tiếp thị xã hội phương tiện tránh thai và khuyến khích thu phí dịch vụ KHHGĐ phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Duy trì tốc độ giảm sinh trung bình mỗi năm 0,1o/oo. Nâng cao sức khỏe bà mẹ và trẻ em; giảm bệnh, tật và tử vong ở trẻ em; giảm tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản. Giảm nhiễm khuẩn đường sinh sản; chủ động phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm ung thư đường sinh sản. Cải thiện sức khỏe sinh sản của vị thành niên và thanh niên. Tăng tỷ lệ điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản thân thiện với người chưa thành niên và thanh niên lên trên 20% tổng số điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giảm số người chưa thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn xuống dưới 0,3%. Giảm tỷ số giới tính khi sinh xuống còn 110 trẻ trai/100 trẻ gái. Tăng cường lồng ghép các yếu tố về dân số vào triển khai chính sách, xây dựng và quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, công tác DS-KHHGĐ năm 2016 của tỉnh vẫn đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tổng số trẻ sinh ra: 28.411 trẻ, giảm 312 trẻ so với cùng kỳ năm 2015; Mức sinh giảm 0,26o/oo, hoàn thành vượt mức kế hoạch năm; Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm 0,79% so với năm 2015; Tỷ số giới tính khi sinh đã khống chế và duy trì ở mức 115 trẻ trai/100 trẻ gái.
Với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, đội ngũ những người làm công tác DS-KHHGĐ đang phát huy tinh thần đoàn kết, vượt qua những khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu trong công tác vận động, tuyên truyền, thuyết phục mọi tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về DS-KHHGĐ, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh./.
Bài và ảnh:
Việt Thắng