Giai đoạn 2011-2015, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) của nước ta đã có chuyển biến, góp phần kiềm chế tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường, giữ cân bằng sinh thái. Tuy nhiên, công tác BVMT chưa giải quyết được một số vấn đề môi trường bức xúc, áp lực gia tăng ô nhiễm môi trường tiếp tục phát sinh cùng với hoạt động đầu tư phát triển. Một trong các nguyên nhân khiến kết quả thực hiện nhiệm vụ BVMT còn hạn chế là do chính quyền ở một số địa phương chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ BVMT theo Luật BVMT; có lúc, có nơi còn coi nhẹ, chưa gắn công tác BVMT với các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội; việc thực hiện công tác hậu kiểm theo thẩm quyền ở cấp huyện, xã còn hạn chế. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn chồng chéo, chưa rõ ràng trong phân công nhiệm vụ BVMT của các cấp chính quyền, nhất là trong một số lĩnh vực như quản lý môi trường CCN, làng nghề, quản lý doanh nghiệp… Trong điều kiện công tác BVMT ngày càng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp, yêu cầu về môi trường trong thương mại quốc tế, hội nhập ngày càng cao... đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nâng cao trách nhiệm thực hiện công tác BVMT của các cấp chính quyền.
|
Công nhân Cty TNHH một thành viên Công trình đô thị Nam Định phun thuốc khử trùng tiêu độc BVMT khu dân cư. |
Nhằm đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật về BVMT; tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước về BVMT một cách hệ thống, đồng bộ, tránh sự chồng chéo trong phân công nhiệm vụ BVMT của các cấp chính quyền, Quốc hội đã thông qua Luật BVMT năm 2014, có hiệu lực từ 1-1-2015. Một trong những điều sửa đổi trong Luật này là phân rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý, chính quyền và người dân. Đặc biệt để nhấn mạnh trách nhiệm quản lý Nhà nước về BVMT, Luật BVMT năm 2014 tách nội dung trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước thành một chương riêng; ngoài quy định trách nhiệm của UBND các cấp tại Điều 143, Luật BVMT năm 2014 còn bổ sung và cụ thể hóa trách nhiệm của UBND các cấp trong BVMT làng nghề tại Điều 70... Từ tháng 4-2015, Sở TN và MT và các huyện, thành phố, các xã đã tập trung phổ biến, tuyên truyền sâu rộng Luật BVMT, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật như: Nghị định số 19/2015/NĐ-CP, Nghị định 18/2015/NĐ-CP, Nghị định 38/2015/NĐ-CP, Thông tư 26/2015/TT-BTNMT, Thông tư 27/2015/TT-BTNMT, Thông tư 36/2015/TT-BTNMT đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trong toàn tỉnh... Tổ chức các hoạt động tập huấn hướng dẫn cán bộ phụ trách môi trường cấp huyện, xã tháo gỡ các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, xử lý vi phạm về BVMT giúp các cán bộ cơ sở tham mưu tốt hơn cho UBND cấp huyện, cấp xã trong thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT tại địa phương. UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở thực hiện nhiều biện pháp nâng cao trách nhiệm năng lực của cán bộ, lãnh đạo trong công tác BVMT. Theo đó, Sở TN và MT tăng cường vai trò của cơ quan chuyên môn về môi trường trong tổng hợp nhu cầu, đề xuất phân bổ, sử dụng hợp lý nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường, bảo đảm việc sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý Nhà nước về BVMT tại địa phương; chủ trì, phối hợp với Công an tỉnh, Ban quản lý các KCN tỉnh, UBND các huyện, thành phố và các sở, ban, ngành liên quan tăng cường thanh tra, kiểm tra về BVMT. Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với Sở TN và MT tham mưu với UBND tỉnh tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về BVMT; tập trung đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm. Sở KH và ĐT phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu, tham mưu với UBND tỉnh về cơ chế ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực xử lý môi trường, xử lý chất thải rắn, nước thải và các dự án ứng dụng công nghệ sản xuất sạch hơn. Công an tỉnh tăng cường công tác nghiệp vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về BVMT; thực hiện việc giám định, kiểm định các vi phạm pháp luật về BVMT theo quy định của pháp luật. UBND các huyện, thành phố tăng cường công tác quản lý Nhà nước về BVMT trên địa bàn; tích cực phối hợp với Sở TN và MT trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về BVMT theo thẩm quyền; giải quyết tố cáo, khiếu nại có liên quan đến BVMT tại địa phương, đồng thời chỉ đạo UBND các xã, phường, thị trấn phân công cụ thể cán bộ phụ trách môi trường; xây dựng kế hoạch BVMT hằng năm và từng bước bố trí kinh phí sự nghiệp môi trường cho cấp xã để chủ động trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ về BVMT ở cơ sở. Đặc biệt, trong việc thực hiện các nhiệm vụ BVMT trọng điểm như: ứng phó biến đổi khí hậu, BVMT làng nghề... UBND tỉnh đã yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương tăng cường kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực bộ máy quản lý tài nguyên, BVMT, nhất là ở cơ sở. Đẩy mạnh phân cấp quản lý và cải cách hành chính, đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý hành chính và phòng, chống tội phạm về TN và MT. Trong thực hiện Đề án tổng thể BVMT làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, UBND tỉnh đã yêu cầu các cấp, các ngành phải giao trách nhiệm cụ thể để phát huy vai trò, trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc tham gia vào công tác BVMT làng nghề. Đào tạo, nâng cao năng lực kiến thức, nhận thức về BVMT cho cán bộ quản lý môi trường làng nghề, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội và cộng đồng trong việc tham gia vào công tác BVMT làng nghề. Hiện nay, trong tổ chức thực hiện việc xử lý các trường hợp vi phạm quy định về BVMT lớn đòi hỏi có sự phối hợp giải quyết liên ngành và những hoạt động quản lý trọng điểm về BVMT cũng được UBND tỉnh quy định phân cấp trách nhiệm cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ ngành như phân cấp trách nhiệm thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp để nâng cao trách nhiệm, vai trò quản lý công tác BVMT của đơn vị thu phí. Cụ thể, Phòng TN và MT các huyện tổ chức thu phí của tất cả các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân có phát sinh nước thải công nghiệp trên địa bàn (trừ các tổ chức, doanh nghiệp trong các KCN); Phòng TN và MT Thành phố Nam Định tổ chức thu phí BVMT nước thải công nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức, doanh nghiệp do thành phố quản lý. Sở TN và MT thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp của các tổ chức, doanh nghiệp trong các KCN trên địa bàn tỉnh và các tổ chức, doanh nghiệp có phát sinh nước thải công nghiệp trên địa bàn thành phố, trừ các đơn vị ở trong các CCN thành phố...
Đến nay, tổ chức, bộ máy quản lý về BVMT từ tỉnh tới xã từng bước được củng cố; các huyện đã tăng cường cán bộ có chuyên môn về môi trường; cấp xã đều giao nhiệm vụ quản lý về môi trường cho cán bộ địa chính kiêm nhiệm. Nhận thức về trách nhiệm BVMT của các địa phương trong tỉnh được nâng cao; công tác tổ chức chỉ đạo, điều phối hoạt động BVMT ở cấp huyện, xã, phường, thị trấn dần nâng cao tính nền nếp, chuyên nghiệp. Các địa phương đã ban hành và triển khai kế hoạch, chương trình công tác BVMT nhằm tiếp tục nâng cao ý thức BVMT của cộng đồng. Thời gian tới, Sở TN và MT tiếp tục tranh thủ các dự án, phối hợp với các đơn vị chức năng tăng cường tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác BVMT./.
Bài và ảnh:
Thanh Thuý