Tỉnh ta có nhiều làng nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ truyền thống, sản phẩm đã có uy tín trên thị trường như: làng Đại An, xã Nam Thắng (Nam Trực); làng Hồng Thiện (thuộc các xóm 31, 32, 34, 35, 36, 37 của HTX Hồng Thiện), xã Xuân Hồng (Xuân Trường); làng Cổ Chất, xã Phương Định (Trực Ninh). Theo ông Nguyễn Xuân Trường, xóm 36, xã Xuân Hồng khẳng định: khu vực bãi sông quê tôi, không có mấy loại cây trồng, con nuôi hiệu quả bằng trồng dâu nuôi tằm. Bình quân mỗi năm, với khoảng 8-10 lứa tằm, mỗi hộ với bình quân từ 2-3 lao động có thu nhập từ 100-120 triệu đồng trở lên.
Chăn tằm tại gia đình ông Nguyễn Xuân Trường, xóm 36, xã Xuân Hồng (Xuân Trường). |
Trồng dâu, nuôi tằm từ lâu đã được coi là nghề “một vốn bốn lời”. Lý giải cho chúng tôi, ông Trường cho biết: Hằng năm nghề dâu tằm ở Xuân Hồng thường bắt đầu vào khoảng tháng 2 âm lịch (thường gọi là vụ tằm xuân) với lứa tằm trắng. Tùy theo diện tích trồng dâu mà người nuôi định lượng trứng tằm. Với 5 sào trồng dâu, vụ tằm xuân ông Trường thường nuôi 6 “vòng” trứng. Do thời tiết dịp này chưa ổn định, thi thoảng vẫn còn trở lạnh nên vụ tằm xuân dài hơn, thường mất từ 28-30 ngày mới cho thu hoạch. Ngoài ra, do vừa trải qua mùa đông khắc nghiệt nên trong vụ tằm xuân, cây dâu cũng cho ít lá nên người nuôi phải có kinh nghiệm “liệu dâu thả tằm” thật khớp để sao cho vừa đủ lượng thức ăn bảo đảm cho tằm sinh trưởng và nhả kén đạt năng suất. Với trên 20 năm kinh nghiệm trong nghề, vụ tằm xuân, ông Trường thường thu được từ 18-20kg kén/vòng trứng. Với giá bán như vài năm gần đây, khoảng 100-110 nghìn đồng/kg. Như vậy chỉ chừng 1 tháng nuôi tằm vụ xuân đã mang lại cho gia đình ông khoản thu trên 20 triệu đồng. Sau lứa tằm trắng đầu xuân, nhà nào có kinh nghiệm kỹ thuật cao, diện tích trồng dâu rộng, dâu còn tốt lá thì gối thêm được một lứa tằm vàng nữa, phần nhiều thì nghỉ nuôi, đốn gốc dâu chuẩn bị cho lứa chính. Cây dâu được chặt sát gốc, chăm bón bằng các loại phân đạm, phân chuồng để qua tháng ba, sang đầu tháng tư (âm lịch) cây nảy mầm, cho lá. Thêm một lý do để khẳng định trồng dâu nuôi tằm là nghề “một vốn bốn lời” bởi lẽ cây dâu trồng ở vùng đất bãi ven sông “tuổi đời” dài, cho thu hoạch ổn định từ 15-20 năm liên tục, nếu chăm sóc tốt có thể đến 30 năm mới phải trồng lại. Sau khi được chăm sóc, cây dâu đã phát triển tốt, bật lá mạnh cũng là lúc vào vụ tằm hè. Khác với vụ tằm xuân, tằm nuôi vụ hè thường là giống tằm vàng với ưu điểm là thời gian ngắn (chỉ từ 20-21 ngày/vụ) nhưng giá kén thấp hơn, chỉ được từ 80-85 nghìn đồng/kg và năng suất kén cũng thấp, chỉ được 11-12 kg/vòng trứng. Tuy hụt hơn về giá và năng suất nhưng vụ tằm hè lại nuôi được liên tục từ tháng 5 đến đầu tháng 10 (âm lịch). Do đó, ở thôn Hồng Thiện, một số hộ có kinh nghiệm nuôi lâu năm như hộ các ông bà: Đinh Thị Đào, xóm 34; Vũ Ngọc Ngân, Nguyễn Xuân Trường đều ở xóm 36... có thể “gối” được 8 tới 10 lứa tằm trong vụ hè. Sau khi trừ chi phí các loại giống, phân bón, mỗi lứa tằm vụ hè cũng cho thu nhập từ 9-10 triệu đồng. Nhận thấy lợi ích thực tế từ nghề trồng dâu nuôi tằm, khoảng chục năm trở lại đây, nghề “ăn cơm đứng” qua thời khó khăn đã phát triển mạnh ở nhiều xóm của HTX Hồng Thiện với khoảng 150 hộ tham gia.
Cũng như thôn Hồng Thiện, xã Xuân Hồng (Xuân Trường), ở thôn Đại An, xã Nam Thắng (Nam Trực) khi thị trường tơ tằm sôi động trở lại, giá tơ, giá kén ổn định hơn, nhiều hộ dân đã quay lại với nghề. Thôn Đại An có 10 xóm thì cả 10 xóm có nghề nuôi tằm, mỗi xóm chừng 50-60 hộ tham gia. Hiện nay, nghề trồng dâu, nuôi tằm còn ở nhiều địa phương trong tỉnh như: Nông trường Rạng Đông (Nghĩa Hưng); xã Tân Thịnh (Nam Trực); xã Phương Định (Trực Ninh). Nông trường Rạng Đông có diện tích trồng dâu, nuôi tằm khoảng trên 10ha, năng suất bình quân đạt 2 tấn kén/ha. Riêng xã Phương Định ngoài nghề trồng dâu - nuôi tằm còn có nghề ươm tơ. Toàn xã hiện có khoảng 20ha dâu với khoảng 350 hộ nuôi tằm. Ngoài ra, thôn Cổ Chất có 230 bếp ươm tơ và gần chục hộ đầu tư máy xe tơ cao cấp xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Thái Lan… Khoảng gần chục năm trở lại đây, nghề trồng dâu, nuôi tằm đã phát triển ở thôn Duyên Hải, xã Tân Thịnh thu hút gần 100 hộ dân tham gia với diện tích khoảng 20ha trồng dâu. Ông Trần Quang Điều, thôn Duyên Hải cho biết: trước đây, cũng như nhiều hộ trong xã, vùng đất bãi cạnh sông Hồng chúng tôi chỉ trồng các loại cây màu theo mùa vụ. Khoảng chục năm trở lại đây, từ một vài hộ ban đầu rồi phần lớn các hộ ở thôn Duyên Hải đều chuyển sang nghề trồng dâu nuôi tằm vì hiệu quả kinh tế. Bình quân mỗi vụ dâu tằm, một hộ cũng có thu nhập ổn định từ 50-70 triệu đồng, có nhà chăm sóc tốt, kỹ thuật cao còn thu được trên 100 triệu đồng/năm.
Ngoài tạo việc làm, thu nhập ổn định cho hàng nghìn lao động, các làng nghề trồng dâu, nuôi tằm còn là nơi lưu giữ văn hoá truyền thống ở các làng quê trong tỉnh. “Nuôi lợn cả năm không bằng nuôi tằm một vụ” nhưng nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ ở các địa phương trong tỉnh vừa có chút khởi sắc trở lại thì lại gặp khó khăn. Diện tích đất trồng dâu của nhiều địa phương có nghề đang giảm mạnh. Những năm trước, xã Phương Định thường duy trì khoảng 60-70ha trồng dâu nhưng hiện chỉ còn khoảng 20ha, sản lượng kén tằm chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu của làng nghề ươm tơ Cổ Chất. Để duy trì ổn định nguồn kén tằm nguyên liệu, nhiều hộ trong thôn Cổ Chất phải nhập kén từ các tỉnh Thái Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn La, Yên Bái… nên chi phí sản xuất tăng cao, hiệu quả kinh tế giảm. Ở xã Xuân Hồng không chỉ diện tích trồng dâu ngày càng bị thu hẹp mà thiếu cả lao động, lực lượng lao động trẻ không mặn mà với nghề vất vả như chăm “con mọn” nhưng thu nhập chưa thật cao. Người nuôi tằm giờ chủ yếu là người nhiều tuổi. Nếu các địa phương có định hướng phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ truyền thống theo hướng bền vững cần quy hoạch các vùng trồng dâu thích hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng của từng vùng để có nguyên liệu ổn định; có cơ chế hỗ trợ người nuôi tằm, trồng dâu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới để phát triển nghề; đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện cho các cơ sở ươm tơ đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường./.
Bài và ảnh: Thành Trung