Theo quy định tại Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu HĐND các cấp, người ứng cử ĐBQH phải đáp ứng được các tiêu chuẩn của ĐBQH quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội (Điều 2 Luật số 57/2014/QH13 ban hành ngày 20-11-2014).
Theo Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo công tác bầu cử Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Hầu A Lềnh, để trở thành ĐBQH trước hết mỗi ứng cử viên (người được giới thiệu ứng cử hoặc tự ứng cử), phải tôn trọng các tiêu chuẩn được quy định trong các văn bản pháp luật, đồng thời phải thực sự tiêu biểu về năng lực, đạo đức để xứng đáng đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng của cử tri cả nước.
Về việc tự ứng cử ĐBQH khóa XV, người tự ứng cử gửi đơn và hồ sơ đến Ủy ban Bầu cử cấp tỉnh, thành phố nơi mình cư trú hoặc công tác thường xuyên. Đối với cán bộ, công nhân, viên chức tự ứng cử trong bộ máy Nhà nước thì theo quy định người đó phải được cơ quan, đơn vị quản lý xác nhận đồng ý thì cá nhân mới tiếp tục nộp hồ sơ. Với cá nhân tự ứng cử sẽ căn cứ theo các quy định pháp luật, hướng dẫn về bầu cử để làm đơn gửi đến Ủy ban Bầu cử cấp tỉnh, thành phố liên quan.
Sau khi nhận và xem xét hồ sơ nếu thấy hợp lệ thì Ủy ban Bầu cử cấp tỉnh, thành phố chuyển hồ sơ của người tự ứng cử tại địa phương đến Hội đồng Bầu cử quốc gia; chuyển danh sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu nhập của người tự ứng cử tại địa phương đến Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp tỉnh, thành phố để đưa vào danh sách hiệp thương.
Cũng theo ông Hầu A Lềnh, ứng cử là quyền của công dân. Quyền tự ứng cử không bị hạn chế, người được giới thiệu ứng cử và tự ứng cử đều có quyền lợi như nhau và các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ tham gia./.
PV