Theo thông tin từ Bộ NN và PTNT, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 11 ước đạt 2,69 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 11 tháng qua đạt 29,1 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2015.
Trong số đó, so với cùng kỳ năm 2015, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 13,7 tỷ USD, tăng 7,2%; giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 6,4 tỷ USD, tăng 6,9%; giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 6,5 tỷ USD, tăng 0,8%.
Cà phê và hạt tiêu là hai ngành hàng có sự gia tăng mạnh nhất, tăng cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu. Cụ thể, so với cùng kỳ năm 2015 ngành hàng cà phê tăng 36,1% về khối lượng và tăng 24,3% về giá trị. Xuất khẩu cà phê trong tháng 11 ước đạt 101 nghìn tấn với giá trị đạt 218 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 11 tháng qua đạt 1,6 triệu tấn và 2,98 tỷ USD.
Ngành hàng hạt tiêu tăng 36,7% về khối lượng và tăng 15,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Cụ thể, khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 11 ước đạt 10 nghìn tấn, với giá trị đạt 78 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 11 tháng qua đạt 170 nghìn tấn và 1,37 tỷ USD.
Lĩnh vực thủy sản vẫn là ngành có đóng góp lớn nhất trong kim ngạch xuất khẩu chung của toàn ngành với giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 11 ước đạt 661 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản 11 tháng qua đạt 6,4 tỷ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2015. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 10 tháng của năm 2016, chiếm 54,1% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản.
Một số ngành hàng như hạt điều, cao su, chè, gỗ và các sản phẩm từ gỗ đều có sự tăng trưởng cả về khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2015 với mức tăng lần lượt: hạt điều tăng 6,2% và tăng 18,3%; cao su tăng 12,3% và tăng 4,6%, chè tăng 7,1% và tăng 4,3%; gỗ tăng 0,7% về giá trị.
Trong khi đó, tiếp tục đà giảm liên tiếp trong những tháng qua, so với cùng kỳ năm 2015 ngành lúa gạo lại giảm 25% về khối lượng và giảm 20,3% về giá trị; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 12,3% về khối lượng và giảm 24,9%./.
PV