UBND tỉnh đã linh hoạt, quyết đoán, tập trung, thống nhất chỉ đạo, điều hành quyết liệt, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, cơ bản hoàn thành tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

08:04, 06/04/2011

(Báo cáo của UBND tỉnh do đồng chí Nguyễn Văn Tuấn,
Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh trình bày tại kỳ họp) 

a
- Kính thưa chủ toạ kỳ họp,
- Kính thưa các đồng chí và các vị đại biểu

Nhiệm kỳ 2004-2011, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, sự chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Tỉnh uỷ, sự giám sát chặt chẽ của HĐND tỉnh; UBND tỉnh đã tích cực chỉ đạo, điều hành, cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi chung của tỉnh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh. UBND tỉnh báo cáo tình hình hoạt động nhiệm kỳ 2004-2011 như sau:

Phần thứ nhất
HOẠT ĐỘNG CỦA UBND TỈNH

I. Tổ chức bộ máy, quy chế làm việc và công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh nhiệm kỳ 2004-2011:

1. Cơ cấu, số lượng và chất lượng thành viên UBND tỉnh:

Cơ cấu, số lượng thành viên UBND tỉnh do HĐND tỉnh bầu ra theo đúng quy định tại Luật Tổ chức HĐND và UBND và các Nghị định của Chính phủ. Đến nay, UBND tỉnh có 8 thành viên gồm: Chủ tịch UBND tỉnh, 02 Phó Chủ tịch UBND tỉnh và 05 Uỷ viên UBND tỉnh được cơ cấu ở các ngành: Công an, Quân sự, Nội vụ, Tài chính và Văn phòng UBND tỉnh.

Các thành viên UBND tỉnh đều có trình độ đại học và trên đại học, đã tốt nghiệp cử nhân chính trị hoặc cao cấp lý luận chính trị; có phẩm chất đạo đức tốt; có năng lực công tác, đã từng là lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, các ngành; có kinh nghiệm thực tiễn trong chỉ đạo, điều hành quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh ở địa phương.

2. Quy chế làm việc của UBND tỉnh:

Căn cứ Nghị định số 23/2003/NĐ-CP ngày 12-3-2003 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ; UBND tỉnh đã ban hành và thực hiện Quy chế làm việc của UBND tỉnh và sửa đổi bổ sung Quy chế làm việc của UBND tỉnh theo đúng Quyết định số 53/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Việc phân công nhiệm vụ của Chủ tịch UBND tỉnh, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh và thành viên UBND tỉnh được quy định cụ thể, xác định rõ thẩm quyền và nêu cao trách nhiệm của từng thành viên trên cơ sở tăng cường tính chủ động, sáng tạo, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể, tạo sự thống nhất, đồng bộ, hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh.

3. Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh:

a) Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh đã chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, đúng quy chế làm việc của UBND tỉnh, đúng quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND. Mọi hoạt động của UBND tỉnh được đặt dưới sự lãnh đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tỉnh ủy và các quy định của pháp luật. Mọi công việc của UBND tỉnh đều được giải quyết đúng phạm vi, thẩm quyền và trách nhiệm đã được phân công theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

b) UBND tỉnh với chức năng của mình đã bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh để cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch, các giải pháp, biện pháp chỉ đạo điều hành quản lý các hoạt động kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh trên địa bàn.

- Hàng năm, UBND tỉnh đều tổ chức hội nghị với các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố triển khai, thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội được HĐND tỉnh quyết định.

- UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành các Quyết định, Chỉ thị và các văn bản chỉ đạo điều hành phục vụ kịp thời công tác quản lý nhà nước trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tạo thuận lợi cho hoạt động của cơ quan, tổ chức, đoàn thể, người dân và doanh nghiệp. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành 30.366 văn bản, trong đó: Lĩnh vực kinh tế 21.836 văn bản; lĩnh vực văn hoá - xã hội 3.146 văn bản; lĩnh vực quốc phòng, an ninh 356 văn bản; xây dựng chính quyền 1.390 văn bản; thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo 4.445 văn bản; phòng chống tham nhũng 17 văn bản. Văn bản của UBND tỉnh đảm bảo đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền, phù hợp yêu cầu cải cách thủ tục hành chính và yêu cầu quản lý, điều hành của UBND tỉnh đối với các cấp, các ngành trong tỉnh.

c) UBND tỉnh thường xuyên quan tâm trao đổi, phối hợp thông tin, quản lý, điều hành với các cơ quan Trung ương và địa phương. UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh chú trọng xây dựng Chương trình công tác năm, quý, tháng để tập trung chỉ đạo những nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

d) UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh tích cực đổi mới phương thức quản lý theo hướng thiết thực, hiệu quả, từng bước ứng dụng công nghệ tin học trong chỉ đạo, điều hành: Hình thức hội nghị trực tuyến đã góp phần tiết kiệm thời gian, giảm kinh phí đi lại, hội họp. Cập nhật thường xuyên, kịp thời trên cổng thông tin điện tử của tỉnh các loại văn bản: quy phạm pháp luật của tỉnh; các Thông báo ý kiến kết luận, ý kiến chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh; Lịch công tác của lãnh đạo UBND tỉnh; Bộ thủ tục hành chính của tỉnh... góp phần nâng cao năng lực, chất lượng chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh.

e) Mạnh dạn phân cấp cho các sở, ngành, các huyện, thành phố và cho các đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh phụ trách các lĩnh vực, phù hợp với tình hình cụ thể của tỉnh theo hướng phân cấp có hướng dẫn, giám sát, kiểm tra.

II. Kết quả thực hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền của UBND tỉnh trên một số lĩnh vực chủ yếu:

1. Về phát triển kinh tế:

UBND tỉnh chú trọng công tác nắm bắt, phân tích tình hình, quyết đoán kịp thời, tập trung, thống nhất, chỉ đạo thực hiện quyết liệt, linh hoạt, đồng bộ các giải pháp phòng chống lạm phát, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm đạt 10,4%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ (đến cuối năm 2010 đạt 70,5%) và giảm dần tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp (cuối năm 2010 đạt 29,5%). Năm 2010, hoàn thành tất cả các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng; một số chỉ tiêu vượt cao.

a) Về nông nghiệp, nông dân và  nông thôn:

UBND tỉnh chủ động, tích cực giải quyết những khó khăn, thách thức về thiên tai, dịch bệnh, khô hạn, thiếu nước, thiếu điện… để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt 3,9%/năm; giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1ha canh tác năm 2010 đạt 71 triệu đồng/ha, tăng cao so với chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII đề ra là 42 triệu đồng/ha.

Trong nhiệm kỳ, UBND tập trung thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, coi đây là một trong  những nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo, điều hành. UBND tỉnh đã ban hành Bộ tiêu chí về nông thôn mới và triển khai xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 đến 73 xã trên địa bàn toàn tỉnh; bước đầu tạo được sự chuyển biến tích cực trong cách nghĩ, cách làm của nhân dân và chính quyền xã. Tổ chức triển khai thực hiện tốt các chính sách: Miễn thuế nông nghiệp; miễn thủy lợi phí; kiên cố hóa hệ thống kênh cấp 1, cấp 2; tích tụ ruộng đất; đào tạo nghề cho lao động và phát triển ngành nghề nông thôn; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh các chính sách khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư; nâng cấp hệ thống đê sông, đê biển phòng chống lụt bão...

b) Công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ duy trì tốc độ phát triển ở mức  khá cao:

- Về công nghiệp: Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt 20,7%/năm. Khu vực công nghiệp đã thu hút được trên 10.000 lao động khu vực nông nghiệp chuyển sang. Tính đến tháng 2-2011, trên địa bàn tỉnh có 3.668 doanh nghiệp; 28 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký là 5.165,2 triệu USD. Đã xúc tiến đầu tư thành công một số dự án lớn trên địa bàn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới như: Nhà máy Nhiệt điện Hải Hậu; thỏa thuận hợp tác với Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam về một số dự án lớn trên địa bàn tỉnh... Đã thực hiện thu hồi 21 giấy phép đầu tư của các doanh nghiệp không thực hiện đúng tiến độ trong Khu công nghiệp Hòa Xá.

- Về thương mại, du lịch và dịch vụ: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 21,9%/năm. Các ngành dịch vụ hoạt động ổn định, giá trị tăng bình quân 9,1%/năm; sản phẩm dịch vụ khá đa dạng với chất lượng ngày càng tốt hơn. Kết cấu hạ tầng thương mại, du lịch từng bước được cải tạo, nâng cấp. Trung tâm thương mại siêu thị BigC Thiên Trường đi vào hoạt động, trở thành địa chỉ tin cậy tiêu thụ các loại sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp của tỉnh; bước đầu làm thay đổi phương thức hoạt động thương mại trên thị trường.

c) Về đầu tư phát triển:

Trong nhiệm kỳ, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng nhiều công trình trong các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện lực, trường học, bệnh viện, khu, cụm công nghiệp, chợ, trụ sở xã, giao thông nông thôn... Hoàn thành kiên cố hóa 35 km đê biển; cứng hóa 38,9 km đê biển và 88,8 km đê sông; kiên cố hóa 154 km kênh cấp 1, 257 km kênh cấp 2 và 528 km kênh cấp 3; xây dựng mới 42 cống dưới đê. Hoàn thành đưa vào sử dụng 4.166 phòng học đạt chuẩn quốc gia. Cơ bản hoàn thành nâng cấp các bệnh viện tuyến huyện. Ngành điện đã đầu tư trên địa bàn 1.824 tỷ đồng, trong đó đầu tư tại khu vực nông thôn là 1.332 tỷ đồng. UBND tỉnh chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ hoàn thành ngay trong năm 2011 một số dự án chiến lược, có tính quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như: Quốc lộ 21 Nam Định - Thịnh Long; Tỉnh lộ 490C từ Nam Định đến phà Thịnh Long; Tuyến đường bộ mới (BOT) Nam Định - Phủ Lý; đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình đoạn qua địa phận huyện Ý Yên. Tập trung đẩy nhanh tiến độ một số dự án trọng điểm khác như: Xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp Bảo Minh, dự án Văn hóa Trần, Bệnh viện 700 giường, các dự án xây dựng Thành phố Nam Định trở thành đô thị loại 1 và trung tâm vùng nam đồng bằng sông Hồng, các dự án đê kè phòng chống bão lụt, khởi công một số công trình lớn: Đường nối Quốc lộ 10 với Quốc lộ 21 có cầu Tân Phong; đường 56 (đoạn từ cầu Hà Lạn đến Thị trấn Liễu Đề); Nhà thi đấu đa năng phục vụ Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc lần thứ VII vào năm 2014... Tổng vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2006-2010 đạt khoảng 37.400 tỷ đồng.

Có 5 nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công trong lĩnh vực đầu tư phát triển: Một là, được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương hỗ trợ, tạo điều kiện. Hai là, các sở, ngành và đơn vị tư vấn rút ngắn thời gian hoàn thành thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản, đảm bảo chất lượng. Ba là, khuyến khích, tạo điều kiện, cùng với nhà đầu tư đồng hành khơi thông các nguồn vốn. Bốn là, sự quyết liệt, kiên trì, linh hoạt trong công tác giải phóng mặt bằng của cả hệ thống chính trị. Năm là, có sự đổi mới trong việc bố trí các nguồn vốn đầu tư, tập trung vào những dự án lớn, trọng điểm và những dự án đã hoàn thành, quyết toán, có tác dụng khuyến khích nhà thầu đẩy nhanh tiến độ triển khai, thực hiện dự án.

d) Thu ngân sách: Năm 2010, tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.329 tỷ đồng, tăng 32,9% so chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. Kết quả trên đạt được một phần là do chính sách phân cấp nguồn thu của tỉnh thực sự có hiệu quả, có tác dụng khuyến khích chính quyền địa phương, cơ sở thường xuyên chăm lo, đẩy mạnh công tác thu, nộp vào ngân sách nhà nước. Đồng thời, cũng phản ánh rõ kinh tế của tỉnh ngày càng phát triển.

2. Về văn hóa - xã hội:

a) Lĩnh vực giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển toàn diện cả về quy mô và chất lượng; là một trong những đơn vị nhiều năm liền dẫn đầu toàn quốc. Năm học 2008 - 2009 và 2009 - 2010, Nam Định dẫn đầu toàn quốc về tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, tỷ lệ học sinh giỏi đạt giải quốc gia và điểm thi bình quân vào đại học, cao đẳng. Đến năm 2010, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia bậc mầm non là 37%, tiểu học 100%, trung học cơ sở 31%, trung học phổ thông 21,4%. Hệ thống đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục được mở rộng hợp lý. Đến nay, đã có 4 trường đại học, 5 trường cao đẳng, 15 trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; các huyện đều có trung tâm dạy nghề.

b) Hệ thống các cơ sở y tế từng bước được củng cố, nâng cấp, hoàn thiện: Đã có 248 cơ sở y tế công lập (trong đó có 19 bệnh viện tuyến tỉnh và huyện, 229 trạm y tế xã, phường); 1.514 cơ sở y tế và dịch vụ y tế tư nhân. Chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng cao; công tác y tế dự phòng được tăng cường, chủ động trong công tác phòng, chống dịch bệnh, không để lây lan ra diện rộng. Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được thực hiện tích cực. Năm 2010, có 118/209 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã; tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống còn 15,9%; tỉ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 85%.

c) Chính sách an sinh xã hội được triển khai thực hiện có hiệu quả: Giai đoạn 2006-2010, đã giải quyết việc làm cho khoảng 166,8 nghìn lượt người (trong đó có trên 11,4 nghìn người đi lao động ở nước ngoài), bình quân mỗi năm tạo được 33 nghìn việc làm mới. Công tác đào tạo nghề, nhất là đào tạo nghề cho lao động nông thôn được chú trọng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2010 đạt 45%. Các chương trình vay vốn giải quyết việc làm, vay đi xuất khẩu lao động, cho học sinh, sinh viên vay đi học được đẩy mạnh. Công tác giảm nghèo có chuyển biến tích cực; năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống chỉ còn 6% (theo chuẩn cũ). Các chế độ, chính sách, nhất là đối với các gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công, người nghèo được thực hiện đầy đủ và kịp thời. Phong trào đền ơn đáp nghĩa được duy trì và phát triển. Các hoạt động bảo hiểm được mở rộng; số người tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế tăng nhanh qua các năm, nhất là người nghèo.

d) Các lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, báo chí, phát thanh, truyền hình có bước phát triển; thực hiện tốt nhiệm vụ định hướng tư tưởng;  tuyên truyền gương người tốt, việc tốt gắn với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vui chơi, giải trí, thưởng thức của nhân dân. Công tác quản lý các lễ hội văn hoá truyền thống thường xuyên được cải tiến. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được mở rộng. Năm 2010, có 40% làng, khu dân cư, 75% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hoá; 70% cơ quan, trường học đạt nếp sống văn hoá.

3. Quốc phòng và an ninh:

- Duy trì và bảo đảm nghiêm chế độ trực chiến sẵn sàng chiến đấu, phòng chống thiên tai, xây dựng lực lượng thường trực, dự bị động viên; huấn luyện, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, vận động quần chúng thực hiện chính sách hậu phương quân đội. Công tác tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu kế hoạch, tạo được thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Thực hiện tốt các cuộc diễn tập về quốc phòng và an ninh theo quy định.

- Tập trung chỉ đạo giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, nhất là an ninh nông thôn và các địa phương có dự án lớn. Bảo vệ thành công Đại hội Đảng các cấp và đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về thăm và làm việc tại tỉnh; bảo vệ tốt các lễ hội có tính nhạy cảm... Triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý và mại dâm. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm’’, dựa vào quần chúng nhân dân để triển khai các biện pháp phòng ngừa, phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Tích cực đảm bảo trật tự an toàn giao thông; số tai nạn giao thông có chiều hướng giảm. Năm 2010, Nam Định là đơn vị đứng thứ 4 toàn quốc về đảm bảo trật tự an toàn giao thông.

4. Công tác thanh tra và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo:

- Công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai tích cực, tập trung vào các lĩnh vực: Xây dựng cơ sở hạ tầng, quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng, thu - chi ngân sách địa phương...

- UBND tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng và ban hành, chỉ đạo thực hiện quyết liệt Chương trình hành động triển khai Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng chống tham nhũng từ cấp tỉnh, cấp huyện đến cấp cơ sở; góp phần xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.

- Duy trì nề nếp tiếp công dân của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh. UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh đã phân công cán bộ, công chức tổ chức tiếp công dân và nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo. Đã chỉ đạo các cơ quan hành chính trực thuộc giải quyết dứt điểm nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo (nhất là các khiếu nại tố cáo kéo dài) đảm bảo đúng quy định về thời gian, trình tự, đúng chế độ chính sách. Hàng năm đã xem xét, giải quyết trên 85% số vụ việc khiếu nại, tố cáo phát sinh. Chú trọng thực hiện công tác hòa giải và xử lý đơn thư ngay từ cơ sở, giảm dần mức độ căng thẳng, giảm dần số đoàn khiếu kiện đông người vượt cấp.

5. Về cải cách hành chính:

UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh tích cực triển khai thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 theo 4 nội dung trọng tâm: Cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. 

a) Về cải cách thể chế:

Một mặt, UBND tỉnh ban hành nhiều cơ chế, chính sách thu hút vốn đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như: Cơ chế khuyến khích đầu tư vào khu công nghiệp tập trung; các chính sách khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư; hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi; phát triển ngành nghề nông thôn; đào tạo nghề cho lao động nông thôn; xây dựng nông thôn mới... Mặt khác, UBND tỉnh thực hiện đẩy mạnh việc đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ: Đã kê khai, rà soát 2.110 thủ tục hành chính (trong đó cấp tỉnh 1.376 thủ tục hành chính, các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh là 734 thủ tục hành chính). Đã kiến nghị sửa đổi, thay thế, bãi bỏ, đơn giản hóa 866 thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh đạt 63% vượt yêu cầu của Thủ tướng là 30%. UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các văn bản không có tính khả thi, trái thẩm quyền hoặc vi phạm về thể thức văn bản. Từ 2004-2010 đã rà soát 10.072 văn bản (trong đó có 162 văn bản quy phạm pháp luật), tiến hành bãi bỏ 01 văn bản và  tự sửa đổi 04 văn bản.

b) Về cải cách tổ chức bộ máy:

Đầu nhiệm kỳ, toàn tỉnh có 23 cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và 3 cơ quan quản lý Nhà nước. Giữa nhiệm kỳ, thực hiện Nghị định 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ về cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn; UBND tỉnh đã thực hiện chia tách, giải thể, sáp nhập và thành lập mới các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh theo hướng sở quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Đến nay, tổ chức các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh gồm 17 sở, ban, ngành; trong đó có 6 sở quản lý đa ngành, đa lĩnh vực là: Sở Nội vụ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công thương, Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch, Sở Y tế, Sở Lao động Thương binh và Xã hội.

c) Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức:

Hàng năm, UBND tỉnh đều xây dựng và triển khai kế hoạch tuyển dụng cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung nguồn nhân lực theo đúng quy định để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ tỉnh đến cơ sở. Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 6-8-2007 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ năm 2007 đến năm 2015 và những năm tiếp theo, UBND tỉnh đã ban hành các chính sách đãi ngộ đối với những người được cử đi đào tạo sau đại học và hỗ trợ những người có trình độ cao về công tác tại tỉnh, ưu tiên tuyển thẳng những người có trình độ đại học hệ chính quy về công tác tại xã, phường, thị trấn. Chủ tịch UBND tỉnh ban hành văn bản quy định tiêu chí đào tạo thạc sỹ; theo đó ai được đào tạo chính quy theo chuyên ngành nào thì được đào tạo thạc sỹ theo chuyên ngành đó. Tăng cường công tác đào tạo trình độ Trung cấp chuyên môn cho cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Đến nay, đã có trên 70% số cán bộ, công chức cấp xã có trình độ Trung cấp chuyên môn trở lên.

d) Về cải cách tài chính công:

Thực hiện phân cấp mạnh quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách. Trình HĐND tỉnh quyết định mức khoán chi ngân sách để làm cơ sở cho việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ.

6. Về thực hiện công tác dân vận và quy chế dân chủ ở cơ sở:

UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành liên quan, hướng dẫn triển khai và tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp và Chỉ thị số 18/1999/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác dân vận của chính quyền. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân địa phương tham gia bàn bạc, quyết định những vấn đề quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân ở cơ sở và  tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền. Việc thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở đã phát huy tác dụng thiết thực, góp phần ngăn chặn tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền của một bộ phận cán bộ, công chức; giữ vững đoàn kết nội bộ; hạn chế điểm nóng phát sinh và xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.

III. Mối quan hệ phối hợp của UBND tỉnh với Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội:

1. UBND tỉnh cụ thể hoá các Nghị quyết, Chỉ thị của Tỉnh ủy thành các văn bản hành chính để tổ chức triển khai thực hiện; định kỳ báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh uỷ các lĩnh vực công tác và xin ý kiến về những vấn đề quan trọng của tỉnh theo Quy chế hoạt động của Tỉnh ủy. Giữ mối quan hệ công tác thường xuyên với Tỉnh ủy đã tạo điều kiện thuận lợi cho UBND tỉnh thực hiện các nhiệm vụ quản lý, điều hành; phát huy được tiềm năng, thế mạnh của địa phương để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.

2. UBND tỉnh thường xuyên phối hợp với Thường trực HĐND tỉnh trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các Nghị quyết của HĐND tỉnh. Tạo điều kiện thuận lợi để các Ban của HĐND và đại biểu HĐND tỉnh giám sát hoạt động của các cơ quan và chính quyền các cấp. Trong các kỳ họp của HĐND tỉnh; Chủ tịch UBND tỉnh và Giám đốc các sở, ngành được phân công đã báo cáo, trả lời chất vấn những vấn đề mà đại biểu và cử tri quan tâm để đại biểu và cử tri trong tỉnh hiểu đúng, hiểu rõ tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh và hoạt động chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh; nhất là đối với việc thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm, những vấn đề gây bức xúc trong nhân dân.

3. Hàng năm, UBND tỉnh xây dựng quy chế phối hợp hoạt động với Mặt  trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể. Thường xuyên mời đại diện của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tham dự các phiên họp thường kỳ của UBND tỉnh, để tham gia ý kiến vào các báo cáo, đề án, chương trình và các lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, UBND tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của tỉnh tham gia xây dựng chính quyền; phối hợp vận động nhân dân tham gia các phong trào thi đua lao động sản xuất, xây dựng nếp sống gia đình văn hoá, xoá đói giảm nghèo; phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí và phòng chống tệ nạn xã hội...

4. UBND tỉnh tạo điều kiện để đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương hoạt động thuận lợi. Thực hiện báo cáo các lĩnh vực theo yêu cầu của đoàn đại biểu Quốc hội, đồng thời chủ động đề xuất, kiến nghị với Quốc hội thông qua Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh. Tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội tiếp xúc với cử tri trước và sau kỳ họp Quốc hội. Tích cực giải quyết những kiến nghị của cử tri do đoàn đại biểu Quốc hội phản ánh, góp phần chấn chỉnh những hạn chế trong quá trình hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước.

- Kính thưa chủ toạ kỳ họp,
- Kính thưa các đồng chí và các vị đại biểu

Phần thứ hai

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ MỘT SỐ BÀI  HỌC KINH NGHIỆM

I. Nhận xét, đánh giá chung:
1. Về ưu điểm

a) Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, sự giám sát chặt chẽ của HĐND tỉnh, sự phối hợp thường xuyên tích cực của MTTQ và các đoàn thể, cùng sự nỗ lực, phấn đấu của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; UBND tỉnh đã linh hoạt,  quyết đoán, tập trung, thống nhất chỉ đạo, điều hành quyết liệt, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, cơ bản hoàn thành tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội: Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao; các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục có bước phát triển mới; an ninh, quốc phòng được giữ vững; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.

b) Trong nhiệm kỳ, nhất là trong giai đoạn gần đây, UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh đã chỉ đạo đối phó thành công trước những ảnh hưởng tiêu cực của suy thoái kinh tế thế giới, lạm phát tăng cao, thiên tai khắc nghiệt, dịch bệnh bùng phát. Nền kinh tế của tỉnh đã tạo lập được mặt bằng  mới cho phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo. Năm 2010, chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh đã tăng được 10 bậc trên bảng xếp hạng (đạt loại khá); chỉ số năng lực hội nhập kinh tế quốc tế xếp thứ 26/63 tỉnh, thành phố (đạt loại khá); được tặng cờ thi đua hạng 2 cụm thi đua đồng bằng Bắc Bộ.

c) Trong quá trình chỉ đạo, điều hành; UBND tỉnh đã quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc và vận dụng linh hoạt các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương, các nghị quyết của Tỉnh ủy và HĐND tỉnh. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã nghiên cứu, ban hành và triển khai đồng bộ các biện pháp quản lý, điều hành, phù hợp với từng lĩnh vực kinh tế, xã hội. UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh đã dành nhiều thời gian, tập trung giải quyết những vấn đề lớn, vấn đề khó có tính phức tạp, những vấn đề trọng điểm có tính quyết định đến sự phát triển của tỉnh trước mắt cũng như lâu dài, cụ thể là: Công tác GPMB và thi công các dự án, công trình trọng điểm; công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư; đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng thành phố Nam Định trở thành đô thị loại 1 và từng bước trở thành thành phố trung tâm vùng nam đồng bằng sông Hồng; xây dựng nông thôn mới... Bên cạnh đó, UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh cũng tập trung xử lý có hiệu quả những vấn đề đột xuất, phát sinh như: Phòng chống thiên tai, dịch bệnh, khô hạn; những khiếu nại, tố cáo phát sinh trong quá trình GPMB thực hiện các dự án; thực hiện các chính sách an sinh xã hội...

d) UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động theo quy chế làm việc của UBND tỉnh; đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh và từng thành viên UBND tỉnh; tạo được sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Mỗi thành viên có ý thức rèn luyện, học tập, không ngừng nâng cao trình độ, hành động quyết liệt đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

e) Tổ chức bộ máy UBND tỉnh được sắp xếp và từng bước hoàn thiện;  làm rõ hơn chức năng và thẩm quyền của các cơ quan. Việc sắp xếp bố trí cán bộ đảm bảo được chất lượng hoạt động của một số sở quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Quy trình quản lý từng bước được cải tiến; chú trọng phối hợp giữa quản lý ngành với quản lý địa bàn thông qua việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, chấp hành đúng chế độ thông tin báo cáo; tăng cường hướng dẫn, tổ chức thực hiện đối với các cấp, các ngành giúp UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành thuận lợi.

f) Công tác cải cách hành chính có sự tiến bộ rõ rệt nhất là trong lĩnh vực đơn giản hóa thủ tục hành chính và cải cách tài chính công. Ý thức phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ từng bước nâng lên.

2. Hạn chế và tồn tại:

Bên cạnh những thành tích đạt được trong nhiệm kỳ, UBND tỉnh vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế, tồn tại, yếu kém cần khắc phục là:

- Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, có mặt phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Tuy một số lĩnh vực đã có sự phát triển đột phá (như giao thông, thủy lợi, thương mại, chỉnh trang đô thị) nhưng đang trong quá trình hoàn thiện nên mức độ tác động, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội chưa nhiều. Nguồn lực của tỉnh về con người, văn hoá, giáo dục... chưa được phát huy cao độ. Chất lượng nhân lực, trình độ công nghệ và thiết bị phổ biến ở mức trung bình.

- Thu ngân sách từ kinh tế địa phương tăng khá, nhưng chưa có nguồn thu lớn và ổn định.

- Công tác quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu: Thực hiện một số dự án lớn ở một số địa phương còn chậm. Lựa chọn nhà thầu thi công còn bộc lộ bất cập. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số địa phương chưa được xử lý dứt điểm. Công tác quản lý thị trường, chất lượng vật tư nông nghiệp, thuốc chữa bệnh và một số mặt hàng thiết yếu có nơi còn buông lỏng... Thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng còn phức tạp. Mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức trong bộ máy hành chính trên một số lĩnh vực còn thiếu chặt chẽ...

- Một bộ phận cán bộ, công chức còn có biểu hiện nhũng nhiễu, phiền hà; chất lượng cải cách thủ tục hành chính và hoạt động theo cơ chế một cửa ở một số đơn vị chưa cao, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và chỉ số cạnh tranh của tỉnh.

- Tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông vẫn là vấn đề bức xúc. Tình trạng khiếu kiện ở một số nơi diễn biến phức tạp.

Những tồn tại yếu kém trên, trước hết thuộc về trách nhiệm của UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh.

3. Nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại:

- Quy mô nền kinh tế còn nhỏ lại gặp phải những tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế, lạm phát, thiên tai, dịch bệnh, thiếu điện... đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.

-  Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa tốt; nhất là trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng làm chậm tiến độ các công trình dự án, gây mất nhiều thời gian, công sức cho các cơ quan Nhà nước, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của tỉnh.

- Việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh ở một số sở, ngành, địa phương, đơn vị còn thiếu chủ động, chưa kịp thời, chưa quyết liệt. Sự phối hợp giữa ngành và cấp trong một số công việc chưa chặt chẽ, còn có tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.

- Năng lực, trình độ kỹ năng quản lý nhà nước của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu.

- Một số chế độ chính sách, văn bản pháp quy của một số bộ, ngành ở Trung ương còn chưa đồng bộ, thống nhất; việc phân cấp giữa Trung ương, địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương triển khai chậm và chưa mạnh; vẫn còn những việc trùng lặp, chồng chéo, thiếu cụ thể, chưa rõ trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, giữa cấp trên và cấp dưới nên UBND tỉnh gặp khó khăn trong tổ chức và triển khai thực hiện.

II. Một số bài học kinh nghiệm:

Qua tổ chức, quản lý và điều hành của UBND tỉnh trong nhiệm kỳ qua, UBND tỉnh rút ra được một số bài học sau:

1. Chủ động quán triệt, vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; bám sát sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và cơ quan nhà nước cấp trên, Nghị quyết của Tỉnh uỷ và HĐND tỉnh để triển khai thực hiện nhiệm vụ. Trong tổ chức, điều hành phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất, bàn bạc kỹ trong tập thể UBND tỉnh; từ đó đề ra những biện pháp quản lý, điều hành có hiệu quả. Xác định rõ trách nhiệm của tập thể và từng thành viên UBND tỉnh trong việc thực hiện từng nội dung công việc, từng nhiệm vụ cụ thể. Tăng cường sự phối hợp với Thường trực HĐND tỉnh, Ủy ban MTTQ tỉnh và các đoàn thể nhân dân.

2. Đánh giá đúng tình hình, tạo dựng và nắm bắt thời cơ, quyết đoán, lựa chọn những vấn đề trọng tâm, tìm khâu “đột phá” phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của toàn dân để triển khai thực hiện. Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh và giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án trên mọi lĩnh vực; tập trung thống nhất chỉ đạo, điều hành theo các chương trình, mục tiêu với tinh thần kiên quyết, triệt để; đồng thời tích cực sâu sát cơ sở để đôn đốc, kiểm tra nắm bắt thông tin và giải quyết dứt điểm những phát sinh mới.

3. Làm tốt công tác tiếp dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Trong công tác thanh tra, kiểm tra phải có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan để tránh trùng chéo. Những vi phạm phát hiện qua thanh tra, kiểm tra phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo pháp luật.

4. Thực hiện cải cách hành chính tiến hành đồng bộ cả 4 nội dung: cải cách thể chế hành chính;  tổ chức bộ máy; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công, trọng tâm vẫn là khâu thủ tục hành chính. Thực hiện công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình giải quyết công việc với người dân, tổ chức, doanh nghiệp; gắn công tác cải cách hành chính với chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tích cực đẩy mạnh thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, đồng thời giữ nghiêm kỷ cương, luật pháp; chăm lo cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số cạnh tranh; tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, đồng thời cùng đồng hành với các nhà đầu tư, các nhà doanh nghiệp nhằm phát huy cao nhất nguồn lực nội sinh, tập trung cao cho xây dựng hạ tầng, trước hết là thủy lợi, hệ thống giao thông huyết mạch và điện năng, đảm bảo môi trường... để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và vững chắc, đảm bảo an ninh quốc phòng ở địa phương.

5. Phân cấp mạnh cho các sở, ngành, các huyện, thành phố thực hiện một số nhiệm vụ, lĩnh vực để giảm cầu cấp, nâng cao trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương.

6. Quan tâm đúng mức khâu đào tạo, quy hoạch, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, công chức trong bộ máy của UBND tỉnh. Phải đặt đội ngũ cán bộ, công chức vào trung tâm của bộ máy hành chính; xem chất lượng, hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức là nhân tố quyết định sự thành bại trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương. Chú trọng đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng hành chính và ý thức, trách nhiệm công vụ của đội ngũ công chức theo hướng gần dân, vì nhân dân phục vụ.

7. Làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, định hướng dư luận. Hướng dẫn cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác chấp hành pháp luật; đồng tâm, hiệp lực, chung sức, chung lòng cùng các cấp, các ngành khắc phục mọi khó khăn để xây dựng tỉnh Nam Định giàu mạnh, văn minh, từng bước lấy lại vị thế của tỉnh trong những năm gần đây.

Phần thứ ba

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

1. Đề nghị Quốc hội nghiên cứu sửa đổi khoản 3, Điều 122 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định UBND cấp xã có từ 3-5 thành viên là chưa phù hợp với cấp xã, đề nghị sửa theo hướng UBND cấp xã có ít nhất 5 thành viên.

2. Đề nghị Chính phủ sửa đổi Nghị định 107/2004/NĐ-CP quy định cấp xã có dưới 8.000 dân được bầu 1 Phó Chủ tịch, xã từ 8.000 dân trở lên được bầu 2 Phó Chủ tịch; nay đề nghị UBND cấp xã có 2 Phó Chủ tịch UBND để phân công phụ trách các lĩnh vực quan trọng ở cấp xã.

3. Việc bố trí cơ cấu thành viên UBND cấp huyện như hiện nay là chưa phù hợp, đề nghị tăng số thành viên UBND cấp huyện bằng số thành viên UBND cấp tỉnh, cơ cấu thành viên UBND cấp huyện phụ trách các lĩnh vực như cơ cấu thành viên UBND cấp tỉnh.

4. Thực hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện tuy có giảm được một số đầu mối nhưng cơ cấu bên trong của từng cơ quan đơn vị có xu hướng vẫn cồng kềnh và biên chế tăng; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan cũng chưa thực sự hợp lý. Nên ổn định bộ máy các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện ít nhất là 2 nhiệm kỳ tránh tình trạng hợp nhất, chia tách, thành lập mới gây khó khăn cho tỉnh, huyện trong khi thực hiện nhiệm vụ.

5. Đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định về cán bộ, công chức cấp xã thay thế Nghị định số 114/2003/NĐ-CP và đề nghị Bộ Nội vụ sửa đổi bổ sung Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16-01-2004 quy định về tiêu chuẩn cán bộ, công chức cho phù hợp với Luật Cán bộ, công chức và Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ.

6. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, ban hành chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cấp huyện không tổ chức HĐND.

7. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ nghiên cứu giao nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Tòa án nhân dân các cấp để đảm bảo tính khách quan và minh bạch.

Trên đây là Báo cáo của UBND tỉnh về tình hình tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh nhiệm kỳ 2004-2011, UBND tỉnh trân trọng báo cáo./.
[links()]

 



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Giấy phép số: 136/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 17/3/2022.

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com