Nông nghiệp - Từ cứu đói đến làm giàu

09:08, 31/08/2018

Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, từ một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, manh mún, thường xuyên chịu ảnh hưởng khắc nghiệt của thiên tai và chiến tranh tàn phá; nông dân, nông thôn đói nghèo, lạc hậu, đến làm giàu từ nghề nông, trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, ngành NN và PTNT tỉnh ta vẫn luôn là điểm sáng của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn; góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Ngành NN và PTNT tỉnh ta ra đời trong điều kiện thời chiến hết sức khó khăn: mùa lũ năm 1945, nước sông Hồng lên to, nhiều đoạn đê bị vỡ gây lụt lớn ở 11 tỉnh miền Bắc cuốn trôi mùa màng và tài sản của hàng triệu gia đình. Tiếp đó lại đến hạn hán khiến 50% diện tích ruộng đất không cày cấy được. Đời sống của nhân dân vốn đã lao đao bởi nạn đói năm Ất Dậu thì lại tiếp diễn nguy cơ đói. Mặc dù còn rất non trẻ, song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và Ủy ban Cách mạng lâm thời, ngành NN và PTNT tỉnh đã bắt tay ngay vào tổ chức động viên toàn dân khắc phục hậu quả lũ lụt, cứu đói. Phong trào nhân dân làm thủy lợi được tổ chức mạnh mẽ, phát động khắp nơi. Qua nhiều ngày đêm lao động khẩn trương của hàng vạn con người, với sự chỉ đạo kiên quyết và kịp thời của Đảng bộ, nhân dân tỉnh đã thắng được nạn lụt, cứu hàng vạn ha lúa bị ngập chìm trong nước. Việc đào mương chống hạn, đắp đê chống bão, lụt, tu sửa đường xá phục vụ sản xuất và đi lại của nhân dân được tích cực đẩy mạnh. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hai nhiệm vụ quan trọng “Cứu đói ở Bắc, kháng chiến ở Nam”, Tỉnh ủy đã đề ra nhiệm vụ trước mắt là: “Khẩn trương giải quyết nạn đói, tích cực chống giặc dốt; ra sức cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; vận động quần chúng hăng hái thực hiện đời sống mới”. Toàn tỉnh đã phát động phong trào “tương thân tương ái”, giúp đỡ lẫn nhau qua khó khăn thiếu đói. Nhân dân trong tỉnh đã quyên góp được hàng trăm tấn gạo cứu tế cho hàng nghìn gia đình bị đói. Tính riêng huyện Nghĩa Hưng từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946 đã quyên góp được 12 tấn gạo. Mặt trận Việt Minh huyện đã kịp thời phân phối số gạo cứu đói cho 1.000 hộ dân ở địa phương. Song song với phong trào “Nhường cơm, sẻ áo, lá lành đùm lá rách”, cán bộ ngành Nông nghiệp đã phối hợp với các huyện vận động nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tận dụng mọi diện tích đất để trồng rau, màu, cây lương thực ngắn ngày kịp thời chống đói và phòng đói. Khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng; không để một tấc đất hoang” đã trở thành hành động thực tế mạnh mẽ của mọi người dân. Diện tích, năng suất các loại cây lương thực lúa, ngô, khoai, sắn… năm sau đều tăng hơn các năm trước; góp phần tích cực thực hiện “diệt giặc đói, diệt giặc dốt và chống giặc ngoại xâm”. Nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Ruộng đất của bọn Việt gian, ruộng đất vắng chủ được tịch thu chia cho những hộ nông dân không có hoặc có quá ít ruộng để sản xuất. Cuộc đấu tranh chia lại ruộng đất cho nông dân sau Cách mạng Tháng Tám ở Nam Định đã giành được thắng lợi, đem lại 40% ruộng đất cho tất cả nông dân, đáp ứng lòng mong mỏi khát khao “người cày có ruộng”, nhất là người phụ nữ lần đầu tiên được hưởng quyền bình đẳng về kinh tế với nam giới. Trong lúc đời sống nhân dân đang gặp khó khăn, đói kém, bọn phản động ra sức chống phá cách mạng thì nguồn ngân sách Nhà nước cũng kiệt quệ mà nhu cầu chi tiêu lại rất lớn. Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh về Quỹ độc lập và tổ chức “Tuần lễ vàng”, động viên đồng bào hăng hái ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc. Nhân dân huyện Vụ Bản quyên góp được 14 lạng vàng, 43 lạng bạc, tiền mặt 4.536 đồng. Huyện Ý Yên ủng hộ 1kg vàng. Huyện Trực Ninh được 2 lạng vàng, 2 chiếc nhẫn, 1 đôi khuyên vàng, 5.500kg thóc và 314.921 đồng… Trong cuộc vận động Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng, Nam Định được xếp thứ ba trong toàn quốc.

Mô hình trồng rau thủy canh của Cty CP Rau quả sạch Ngọc Anh, xã Trực Hùng (Trực Ninh).
Mô hình trồng rau thủy canh của Cty CP Rau quả sạch Ngọc Anh, xã Trực Hùng (Trực Ninh).

Đất nước giành được độc lập chưa lâu lại phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp. Ngành NN và PTNT lại bước vào giai đoạn khó khăn mới, sản xuất để vừa phục vụ đời sống vừa phục vụ kháng chiến. Tháng 6-1947, Tỉnh ủy phát động phong trào thi đua sản xuất để ổn định đời sống nhân dân và góp phần “nuôi quân đánh giặc”. Khắp nơi trong tỉnh nông dân hăng hái tăng gia sản xuất và đã đạt được kết quả khả quan. Hai vụ chiêm, mùa năm 1947 toàn tỉnh cấy 380 nghìn mẫu lúa, tổng sản lượng thóc đạt 222 nghìn tấn; đến năm 1948 tổng sản lượng thóc đạt 227 nghìn tấn. Diện tích rau, màu, cây công nghiệp cũng tăng, riêng cây bông phát triển mạnh. Sản lượng bông tăng từ 11 tấn (năm 1947) lên 150 tấn (năm 1948). Từ năm 1950 đến 1953, địch mở rộng chiếm đóng nhiều vùng trong tỉnh, cùng với bọn phản động ra sức càn quét, tàn sát dã man hòng phá hoại sản xuất và triệt phá tận gốc các cơ sở kháng chiến. Chỉ tính riêng trận càn tháng 10-1952, địch đã phá 700 mẫu lúa và hoa màu, 1.200 tấn thóc, 3.400 con trâu bò. Trước tình hình đó, ngành NN và PTNT kịp thời tham mưu cho tỉnh nhiều biện pháp đẩy mạnh phát triển trồng trọt, chăn nuôi, phục hồi canh tác những vùng đất trắng mới giành lại, phục hóa hàng nghìn mẫu ruộng bị bỏ hoang nhiều vụ. Phong trào chăn nuôi, tăng gia sản xuất và tiết kiệm phát triển ở khắp nơi. Bước sang năm 1954, cuộc chiến ngày càng trở nên ác liệt, nhiệm vụ của ngành NN và PTNT lại hết sức nặng nề, phát triển sản xuất để vừa đảm bảo đời sống nhân dân vừa phải chi viện cho tiền tuyến, quyết tâm giải phóng quê hương. Nông dân Nam Định đã đấu tranh với địch bằng nhiều hình thức để bảo vệ sản xuất. Cuối tháng 5-1954, tỉnh đã đóng được trên 9.300 tấn thóc thuế nông nghiệp, đạt 80% mức huy động cả năm và vượt chỉ tiêu Liên Khu giao; riêng huyện Giao Thủy vượt mức 180,8 tấn. Đến tháng 9-1954, 90% diện tích ruộng hoang hóa đã được khôi phục lại. Trong những năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp gian khổ, ngành NN và PTNT cùng với các ngành, các địa phương trong tỉnh tích cực vận động nhân dân thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các phong trào tăng gia sản xuất để đảm bảo đời sống nhân dân, thực hành tiết kiệm, đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến. Với tinh thần “Tất cả vì kháng chiến, tất cả vì chiến thắng Điện Biên Phủ”; ngành Nông nghiệp và nông dân, nông thôn tỉnh đã hoàn thành sứ mệnh của “hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn”. Sau 10  năm (1945-1955), sản lượng lương thực từ gần 293 nghìn tấn tăng lên gần 400 nghìn tấn. Nông nghiệp phát triển đã  góp phần giải quyết nạn đói cho dân, đóng góp tích cực sức người, sức của cùng cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, kết thúc bằng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng; cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước, đặc biệt 10 năm thực hiện Nghị quyết “tam nông” của Đảng (2008-2018), hạt nhân là chương trình xây dựng NTM, kinh tế nông nghiệp, nông thôn tỉnh ta có bước phát triển mới, chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô, trình độ và hiệu quả cao hơn. Quan hệ sản xuất tiếp tục được đổi mới. Trồng trọt được thực hiện theo “cánh đồng lớn”, “cánh đồng liên kết” gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Chăn nuôi chuyển dịch mạnh theo hướng giảm chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ sang chăn nuôi hàng hóa theo mô hình trang trại, gia trại theo phương thức công nghiệp, đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi trường; chất lượng đàn gia súc, gia cầm được nâng cao. Sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản phát triển sôi động; khai thác, chế biến và hậu cần dịch vụ nghề cá được duy trì, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Toàn tỉnh đã tranh thủ huy động các nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tập trung ưu tiên các công trình trọng điểm phục vụ sản xuất, phòng chống thiên tai và phúc lợi xã hội, nhất là về đê điều, thủy lợi, nước sạch. Đã nâng cấp kiên cố hóa cơ bản tuyến đê biển, hàng trăm km đê sông; cải tạo, kiên cố, từng bước hoàn thiện các hệ thống công trình thủy lợi góp phần nâng cao năng lực phòng chống thiên tai, đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và đời sống ngày càng cao. Toàn tỉnh đã hình thành và phát triển 151 cánh đồng lớn ổn định với quy mô từ 30ha trở lên, trong đó có 68 cánh đồng liên kết chuỗi giá trị giữa hộ nông dân, HTXDVNN và doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất từ các cánh đồng lớn và cánh đồng lớn liên kết đều tăng từ 15-20% so với sản xuất nhỏ lẻ trước kia. Giá trị sản xuất bình quân trên 1ha đất canh tác của tỉnh tăng lên trên 100 triệu đồng; toàn tỉnh có trên 3.300 gia trại và 679 trang trại; giá trị sản lượng hàng hóa từ các trang trại, gia trại năm 2017 đạt gần 3.000 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân 1ha đất trang trại đạt gần 300 triệu đồng/năm. Nông nghiệp phát triển toàn diện đã góp phần tăng thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2017 lên 40 triệu đồng.

Bề dày truyền thống với những bài học kinh nghiệm qua các giai đoạn phát triển cam go, đầy khó khăn thách thức  là hành trang nền tảng vững chắc để ngành Nông nghiệp tỉnh nhà bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng và đẩy mạnh xuất khẩu; nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho dân cư nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực. Phấn đấu thực hiện thắng lợi chương trình xây dựng nông thôn mới và đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; xây dựng Nam Định ngày càng giàu mạnh, văn minh; xứng đáng là trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng./.

Bài và ảnh: Ngọc Ánh

 



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com