"Vị tướng Thành Nam"

08:04, 30/04/2020

“Phát huy những bài học kinh nghiệm của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới” - Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND), TS Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Ủy viên BCH Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nêu!

Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng LLVTND Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng trò chuyện với tác giả tại nhà riêng.
Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng LLVTND Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng trò chuyện với tác giả tại nhà riêng.

Vinh dự nhiều lần gặp, chúng tôi được nghe Thượng tướng, Viện sĩ, TS, Anh hùng LLVTND Nguyễn Huy Hiệu kể về dặm đường chiến đấu. 45 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong ký ức của người “Anh hùng trận mạc” luôn in đậm những kỷ niệm cao đẹp về tình quân dân, nghĩa đồng bào; về những chiến công anh dũng của Bộ đội Cụ Hồ trên các mặt trận “túi bom, vựa đạn” trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Chân tình và cởi mở, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu “tổng kết” cô đúc cuộc đời binh nghiệp của ông - một vị tướng đi lên từ thực tiễn, gian nan, máu lửa. Sinh năm 1947 tại xã Hải Long (Hải Hậu), theo tiếng gọi của Tổ quốc, tháng 2 năm 1965, ông vào quân ngũ; từ năm 1968 đến 1972, là những tháng ngày chiến đấu trong Trung đoàn 27, còn gọi là Trung đoàn Đỏ - Nghệ An, sau này là Trung đoàn Triệu Hải đã tôi luyện và gắn liền với những chiến công của vị Anh hùng trận mạc Nguyễn Huy Hiệu. Trong cuộc đời “binh nghiệp”, ông Hiệu đã chiến đấu và tham gia chiến đấu trong bốn chiến dịch lớn: Chiến dịch Mậu Thân năm 1968; Chiến dịch Đường 9 Nam Lào năm 1971; Chiến dịch mùa hè đỏ lửa năm 1972 và Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

Khi nhắc đến quê hương Hải Long (Hải Hậu), ông xúc động tự trào bằng những vần thơ: “Xa quê đi chiến đấu. Nhớ dòng sông trong mơ. Sóng du bờ phù sa. Nơi chân trời góc bể. Nhớ Hải Long quê mình.”. Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu quả quyết: “Thế hệ chúng tôi ra trận chẳng ai nghĩ mình sẽ trở thành anh hùng, trở thành tướng đâu. Có điều tôi ngay từ khi khoác lên mình bộ quân phục đã luôn tâm niệm, phải làm sĩ quan và sống sao cho xứng đáng với dòng họ mình”. Trải nghiệm rồi chiêm nghiệm; xuất thân từ một người lính, sống và chiến đấu tại chiến trường “túi bom, vựa đạn”, 26 tuổi đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND và đến năm 40 tuổi được phong quân hàm Thiếu tướng, tham gia 67 trận đánh ác liệt, sống chết với đồng đội nên Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu càng thấm thía giá trị của cuộc sống hòa bình ngày nay cũng như trách nhiệm của những người đang sống đối với các anh hùng, liệt sĩ. Ông tâm sự: “Trong chiến tranh, tôi đã từng gắn bó, từng bế trên tay, từng mai táng bao đồng đội của mình. Ranh giới giữa cái sống và cái chết thật mong manh nhưng tất cả những người lính đều không ai bận lòng”. Bao năm vào sinh ra tử, đằng sau những chiến công oanh liệt, là những tấm gương kiên trung, mưu trí, anh dũng của những chiến sĩ Trung đoàn 27. Chiến đấu giữa lòng địch, từng phút, từng giờ đối mặt với đạn, pháo, song những người lính trẻ vẫn lạc quan, yêu đời, vững tin vào chiến thắng. Cũng từ chân lý ấy, mà biết bao đồng đội của ông nguyện hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc của đồng bào. Đó là những hình ảnh bình dị nhưng vô cùng thiêng liêng về phẩm chất anh Bộ đội Cụ Hồ mãi mãi sáng danh sử vàng quê hương; là minh chứng cao đẹp về truyền thống hào hùng của các LLVTND Việt Nam “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27, Sư đoàn 320B, Quân đoàn 1. Theo lời kể của ông: Vào tháng 4-1975, mũi tấn công thọc sâu cánh Bắc của Trung đoàn Triệu Hải theo trục đường 13 từ Lái Thiêu đập tan tuyến tử thủ Bắc Sài Gòn, chiếm cầu Vĩnh Bình. Tiếp đó, nhiệm vụ của Trung đoàn Triệu Hải là đánh chiếm Bộ Tư lệnh Thiết giáp ngụy ở Gò Vấp và cùng với các cánh quân khác tấn công nhiều cứ điểm trọng yếu của địch, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào trưa ngày 30-4-1975.

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu nhớ lại: “Tối 29-4, chúng tôi cùng với tổ trinh sát về tới ấp Búng, cách Lái Thiêu khoảng 10km thì nhìn thấy bên kia khu nghĩa địa là ngôi làng, trong làng có một ngôi nhà lợp lá, bên trong hãy còn le lói ánh đèn. Chúng tôi quyết định đi qua nghĩa địa vào làng. Tại đây, tôi đã được gặp má Huỳnh Thị Sáu (tên thường gọi là Sáu Ngẫu) - bà má miền Nam vốn là cơ sở cách mạng ở địa phương trao cho tấm bản đồ chỉ đường để giúp quân giải phóng tiến vào Sài Gòn thuận lợi, tránh được thương vong tổn thất lớn trên trục đường. Đêm hôm đó, má Sáu đã tham mưu cho Trung đoàn rất nhiều điều quan trọng trong trận đánh. Gia đình má Sáu là gia đình cách mạng, chồng má là ông Hai Nhượng đã hy sinh năm 1968, sự việc đau lòng đó má giấu kín trong lòng để tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Má là giáo viên dạy tiếng Pháp ở Sài Gòn. Tấm bản đồ này má ghi lại tất cả những điểm quan trọng trong thành cũng như trên trục đường từ Lái Thiêu về Sài Gòn để chờ trao cho quân giải phóng. Mục đích chính là giúp quân giải phóng tránh được những chỗ địch cài mìn, bố trí tuyến phòng thủ, chốt chặn… Từ tấm bản đồ và chỉ dẫn của má Sáu Ngẫu, hôm sau chúng tôi dùng loa kêu gọi 2.000 lính ở trại Huỳnh Văn Lương đầu hàng. Đồng thời, tấn công qua Lái Thiêu, tiêu diệt các ổ đề kháng và vượt cầu Vĩnh Bình tiến thẳng vào Bộ Tư lệnh Thiết giáp ngụy, chiếm luôn 13 căn cứ của lục quân công xưởng ở Gò Vấp và Tổng y viện cộng hòa. Lúc đó là khoảng 10 giờ 30 phút ngày 30-4”.

“Trưa hôm đó, chúng tôi nhận được thông tin, Sài Gòn đã hoàn toàn giải phóng, chính quyền của tổng thống Dương Văn Minh đã đầu hàng vô điều kiện. Niềm vui, hạnh phúc được tích tụ, kìm nén bấy lâu như được vỡ òa. Phút chốc rừng cờ hoa và dòng người hân hoan đổ xô ra đường. Trong giờ phút lịch sử ấy, một cảm xúc khó diễn tả ngập tràn trong tôi. Tôi nhớ đến Đại đội trưởng xe tăng Hoàng Thọ Mạc vừa mới hy sinh ngay trước cửa ngõ Sài Gòn; nhớ má Sáu Ngẫu ở Lái Thiêu, biểu tượng của các bà má Nam Bộ sẵn sàng hy sinh để góp phần vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng…” - Ông trải lòng!

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu nêu: Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26-4 đến 30-4-1975) là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng vũ trang nhân dân quy mô lớn. Đây là nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam, để lại những bài học kinh nghiệm quý về nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành thắng lợi quyết định; nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, hình thành sức mạnh áp đảo bảo đảm đánh địch trên thế mạnh; nghệ thuật phát huy sức mạnh hiệp đồng quân, binh chủng trong tác chiến quy mô lớn; nghệ thuật kết hợp những đòn tiến công quân sự giữa tiến công với nổi dậy, nổi dậy với tiến công ở cả rừng núi, nông thôn, đồng bằng và đô thị; nét độc đáo về nghệ thuật chỉ đạo vận dụng chiến thuật linh hoạt, sáng tạo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến dịch.

Sau khi nghỉ các chức vụ của Nhà nước và quân đội, với hàm Viện sĩ Viện Hàn lâm quân sự Cộng hòa Liên bang Nga, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu vẫn tiếp tục cống hiến cho khoa học quân sự, tham gia các hoạt động nhân đạo và bảo vệ môi trường. Thượng tướng chính là “cha đẻ” của phương châm “Bốn tại chỗ” trong phòng, chống thiên tai. Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu là nhân vật tiêu biểu cho hình ảnh, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, trở thành nhân vật nguyên mẫu trong các sáng tác văn học, nghệ thuật được các nhà văn khắc họa qua những tác phẩm như: Vở kịch “Đại đội trưởng của tôi” của nhà viết kịch Đào Hồng Cẩm; tập truyện ký “Bến sông tuổi thơ” của nhà văn Lê Hoài Nam; các tập bút ký văn học, báo chí “Hoài niệm chiến trường xưa và đồng đội”, “Vị tướng Thành Nam” của nhà văn Dương Thiên Lý./.

Bài và ảnh: Việt Thắng


 



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com