Xuân về trẩy hội Chùa Bi
.

Xuân về trẩy hội Chùa Bi

08:45, 17/02/2023
 

“Hai mươi phát tấu chùa Bi
Trai đi được vợ, gái đi được chồng”

Vào ngày 20 tháng Giêng hàng năm, trong tiết xuân nguyên đán còn nồng nàn, Chùa Đại Bi, thị trấn Nam Giang (Nam Trực) lại tưng bừng mở hội. Người dân Nam Giang (Nam Trực) "dù ai buôn đâu, bán đâu" đều náo nức cùng du khách thập phương về trẩy hội. Trải qua hàng trăm năm được người dân duy trì và gìn giữ, năm nay, lễ hội Chùa Đại Bi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nơi đây, một công trình hai di sản vật thể và phi vật thể cấp quốc gia. Trước đó, từ năm 1964, Chùa Đại Bi đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Trong sách “Tân Biên Nam Định địa dư chí lược” của Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn (1880) Khiếu Năng Tĩnh có ghi: “Giàu nghèo cũng cứ chơi xuân/Thắp hương cầu phúc, bước chân vui vầy/Thứ nhất thì hội Phủ Dầy/Vui thì vui vậy, không tày chùa Bi”.

 

 

Trong lễ hội Chùa Bi có một hoạt động đặc biệt, vừa là lễ, vừa là hội, môn nghệ thuật múa rối đầu gỗ chầu Thánh (hay còn gọi là Ổi Lỗi) - được coi là môn nghệ thuật “độc nhất, vô nhị” trong cả nước. Ông Nguyễn Tiến Dũng (69 tuổi), Trùm trưởng phường rối đầu gỗ chầu Thánh chùa Đại Bi cho biết: Múa rối cạn chầu Thánh còn có tên gọi cổ là hội tu kỳ lệ (có nghĩa là răn đời bỏ ác làm thiện), là nghi lễ đặc trưng và quan trọng nhất trong lễ hội Chùa Đại Bi, được tổ chức trong 4 ngày chính là 20, 21, 22 và 23 tháng Giêng. Múa rối chầu Thánh là biểu diễn để cho Thánh ngự xem, chứ không phải để người dân xem. Vì vậy, nó chỉ diễn ra trong khoảng thời gian và không gian thiêng nhất định, tức là phía trước ban Tam bảo và ban thờ Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh.

 

 

Hiện nay, Phường rối chầu Thánh Chùa Đại Bi được hình thành bởi 3 phường rối của 3 thôn: Vân Chàng, Giáp Tư, Giáp Ba. Người được chọn vào phường phải có tâm thiện, am hiểu loại hình nghệ thuật này.

 

 

“Nhân vật chính” trong Ổi Lỗi là "Thập nhị Thánh tượng" (12 tượng Thánh, gồm sáu tượng rối lớn và sáu tượng rối nhỏ). Tượng rối lớn còn gọi là “ông Lộng”, trong đó, phân ra các đôi tượng như: "Chúa Lộng" (mang gương mặt của quan văn, quan võ), đôi tượng "Chàng cát" (hay còn gọi là Cóc vàng); đôi tượng "Tùy trắng”. Sáu tượng rối nhỏ tượng trưng cho sáu nhân vật gồm: tượng Chàng, tượng hai Nàng tiên, tượng ông Chớp, tượng Hoàng hậu, tượng ông Mách. Các tượng rối bằng gỗ đặc, cao khoảng 30cm, nặng khoảng 1kg/tượng. Gọi là rối đầu gỗ bởi chỉ có đầu con rối làm bằng gỗ, trang phục phủ vải từ cổ xuống. Nhạc cụ sử dụng trong nghệ thuật múa rối chầu Thánh gồm: 1 trống cái (để cầm canh chuyển làn điệu); 1 chuông đẩu và 1 trống thầy bói (gõ theo trống cái), 1 trống bảng, 2 trống cơm, 2 thanh la.

 

 

Về lời ca và giai điệu, nghệ thuật Ổi Lỗi hiện còn lưu giữ 26 bài, 32 làn điệu; nội dung ca ngợi công lao của Đức Thánh Từ và cầu cho đất nước "thái bình thịnh trị, vua sáng tôi hiền". Ngày nay, để chuẩn hóa lời ca theo văn tự cổ và các hội viên mới dễ tiếp cận lời ca, Phường rối tiến hành dịch lại các chữ Hán - Nôm trong cuốn sách “Kinh thánh hát rối Chùa Đại Bi”. Mỗi khi lấy tượng ra biểu diễn (thường ngày cất trong hòm đặt ở giữa chùa, sau gian chính thờ Phật), các cụ trong Phường rối phục trang áo the khăn xếp, thắp hương cúng lễ cẩn thận. Sân khấu biểu diễn đơn giản là một bức rèm che thêu cách điệu hình sóng nước được mắc vào hai cây cột giữa tiền đường trong chùa, người múa rối, người hát, người gõ nhạc cụ đứng sau tấm màn, quay mặt về phía ban thờ Phật và ban thờ Đức Thánh Từ (vì là múa để chầu Thánh, cốt là cho Thánh xem). Người múa cầm tượng Thánh giơ tay múa trồi lên trên tấm màn che theo lời hát, múa từ trái qua phải,… cứ thế những Thánh tượng thay đổi vị trí cho nhau, mỗi làn điệu các Thánh tượng đều có những tư thế khác nhau.

 

Chùa Đại Bi, thị trấn Nam Giang (Nam Trực) được cấp Bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1964. Theo hồ sơ di tích, bên cạnh giá trị về lịch sử và nghệ thuật kiến trúc, Chùa Đại Bi hiện lưu giữ nhiều di vật, cổ vật rất có giá trị, như: 10 tấm bia và 10 đạo sắc phong thần, trong đó tấm bia cổ nhất khắc vào đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị 4 (1679), đạo sắc sớm nhất vào ngày 8 tháng 8 niêu hiệu Cảnh Hưng 28 (1767). Ngoài ra, chùa còn giữ được nhiều đồ thờ tự cổ quý giá, đặc biệt là cỗ nhang án, khám và tượng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh mang phong cách thời Hậu Lê, thế kỷ XVII-XVIII.

 

 

Tham dự lễ hội Chùa Đại Bi, du khách không những thỏa mãn ước nguyện lễ Phật, lễ Thánh cầu may đầu xuân mà còn được hòa mình vào những sinh hoạt văn hoá dân gian độc đáo. Trong đó, phần "lễ" bao gồm các nghi lễ trang trọng như: Lễ mộc dục thắng nghì; lễ cúng phát tấu và thi thầy; lễ rước kiệu và khai hội; nghi lễ tế Thánh Tổ. Phần "hội", du khách được thưởng thức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống như: vật Chầu Thánh, đánh cờ người, tổ tôm điếm, hội thi chim...

 

Theo sử sách, môn vật Chầu Thánh Chùa Đại Bi là trò chơi "dân vũ" mang ý nghĩa cầu may mắn, bình an đến với người dân trong vùng, cầu năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Trước khi bước vào trận đấu, các đô vật đều phải thực hiện bài “xe đài", "cuốn chỉ” - đây là thủ tục bái tổ, chào khán giả. Khi “xe đài” 2 đô vật quay về phía đền bái Thiền sư Từ Đạo Hạnh, nên môn vật ở đây còn có tên gọi là vật Chầu Thánh.

 

 

Ngày 11-2 vừa qua, UBND thị trấn Nam Giang đã tổ chức Lễ đón Bằng Công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đối với Lễ hội Chùa Đại Bi. Đây là niềm tự hào lớn của người dân địa phương, là cơ sở và động lực quan trọng để chính quyền, người dân tiếp tục đẩy mạnh việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Thời gian qua, để bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật rối cạn trước nguy cơ bị mai một, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Nam Trực chỉ đạo Phòng Văn hóa thông tin phối hợp với các phòng chuyên môn của Sở VH, TT và DL, Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ VH, TT và DL), phối hợp với Viện Âm nhạc tổ chức đào tạo thế hệ diễn viên và nhạc công trẻ để bổ sung cho lớp nghệ nhân rối cạn Chùa Đại Bi, góp phần bảo tồn và phát triển môn nghệ thuật đặc biệt riêng có của huyện; trở thành điểm tham quan, nghiên cứu, học tập./.

Việt Thắng



Xem thêm bình luận