Giải pháp xử lý nước thải trong các KCN tỉnh

09:01, 13/01/2014

Cùng với sự phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, các KCN của tỉnh đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải, khí thải và nước thải công nghiệp. Theo quy định, nước thải của các doanh nghiệp trong KCN trước khi thải ra hệ thống thoát nước chung của KCN phải được xử lý sơ bộ đạt QCVN 24:2009/BTNMT và đưa về xử lý tiếp tại trạm xử lý nước thải tập trung của KCN. Tuy nhiên, trong các KCN của tỉnh đã đi vào hoạt động, vẫn có KCN chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung, nước thải sau xử lý sơ bộ từ các nhà đầu tư thứ cấp được xả trực tiếp ra nguồn tiếp nhận. Tại KCN Mỹ Trung, chủ đầu tư xây dựng hạ tầng KCN mới chỉ đầu tư xây dựng một phần hệ thống thu gom nước mưa, nước thải chung của toàn KCN; hệ thống thoát nước thải của KCN chưa được đấu nối vào kênh T3-11 theo quy hoạch được duyệt. Do vậy, toàn bộ nước mưa và nước thải của các dự án đầu tư thứ cấp một phần là tự thấm, một phần chảy ra mương hở phía bắc để thoát ra kênh T9. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp tại KCN chưa xây dựng hệ thống thoát nước mưa, nước thải nội bộ riêng biệt, chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải; chủ yếu được xử lý sơ bộ qua hệ thống bể phốt rồi thải ra cống chung của KCN. KCN Hòa Xá đã được xây dựng và đưa vào sử dụng trạm xử lý nước thải tập trung của KCN giai đoạn I có công suất 4.500 m3/ngày đêm từ ngày 21-3-2012 để xử lý nước thải của các doanh nghiệp trước khi đổ ra sông Vĩnh Giang. Ban Quản lý các KCN tỉnh đã phối hợp với Trung tâm Quan trắc và phân tích tài nguyên môi trường tiến hành lấy mẫu quan trắc giám sát mẫu nước thải của các KCN. Kết quả cho thấy, nước thải từ các KCN của tỉnh và nước mặt các thuỷ vực tiếp nhận nước thải từ các KCN (sông Vĩnh Giang, sông Tiên Hương) đã có dấu hiệu bị ô nhiễm các thành phần COD, BOD, SS, tổng phốt pho, coliform... Đặc biệt, sự gia tăng về khối lượng nước thải cũng như nồng độ các thông số bị ô nhiễm sẽ kéo theo sự gia tăng các chi phí xử lý, khắc phục và phòng ngừa ô nhiễm do nước thải gây ra. Trước thực trạng trên, bộ máy quản lý Nhà nước về BVMT  KCN được kiện toàn, phân công cụ thể trách nhiệm giữa các cơ quan chuyên môn. Công tác cấp phép môi trường được các cơ quan thực hiện đúng quy định, rút ngắn thời gian, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN. Các công cụ kinh tế thông qua hình thức thu phí BVMT đối với nước thải đã được triển khai áp dụng trên diện rộng, không xảy ra vướng mắc. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng môi trường KCN đã được các cơ quan chức năng triển khai thường xuyên. Sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến công tác BVMT và quản lý môi trường nước thải của các KCN ngày càng được tăng cường chặt chẽ. Công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn triển khai các quy định về BVMT đối với các doanh nghiệp KCN được thực hiện thường xuyên. Nhờ đó, Cty Phát triển và Khai thác hạ tầng KCN và các doanh nghiệp đầu tư trong các KCN từng bước có ý thức trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về công tác quản lý, BVMT KCN nói chung và môi trường nước thải nói riêng. Hầu hết các đơn vị đều đã có báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản cam kết BVMT, bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và xác nhận; đã đầu tư xây dựng tách riêng hệ thống thoát nước mưa và nước thải, tổ chức đấu nối vào hệ thống thoát nước chung của KCN theo hướng dẫn của Cty Phát triển và Khai thác hạ tầng KCN, định kỳ hằng năm đã tiến hành nạo vét, duy tu các tuyến cống. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư kinh phí xây dựng trạm xử lý nước thải để xử lý sơ bộ nước thải trước khi thải ra cống chung của KCN; nghiêm túc thực hiện các quy định về việc kê khai, nộp phí BVMT đối với nước thải. Bên cạnh những mặt tích cực, tình trạng ô nhiễm môi trường nước thải tại các KCN của tỉnh đến nay chưa được giải quyết triệt để do nhiều nguyên nhân; trong đó khó khăn về vốn để đầu tư các công trình xử lý, nguồn nhân lực cho công tác BVMT KCN; nhận thức về trách nhiệm, ý thức tự giác trong công tác BVMT của một bộ phận doanh nghiệp có lúc, có nơi vẫn còn bị xem nhẹ. Việc triển khai xây dựng hạ tầng các KCN chưa đồng bộ dẫn đến một số khó khăn trong việc thu phí nước thải BVMT đối với nước thải, cấp phép xả nước thải. Tỷ lệ doanh nghiệp không thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung đã đăng ký trong báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản cam kết BVMT, bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận phê duyệt còn cao. Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải nội bộ nhưng hoạt động kém hiệu quả. Việc thực hiện công tác quan trắc, giám sát môi trường định kỳ còn mang tính đối phó và chưa phản ánh đúng thực trạng môi trường nước thải của doanh nghiệp...

Vận hành dây chuyền Trạm xử lý nước thải tập trung KCN Hoà Xá (TP Nam Định).  Bài và ảnh: Thuý Vy
Vận hành dây chuyền Trạm xử lý nước thải tập trung KCN Hoà Xá (TP Nam Định).

Để giải quyết những vấn đề tồn tại, Ban Quản lý các KCN tỉnh cần phối hợp với Sở TN và MT để xác định chính xác nguyên nhân gây ô nhiễm tại các doanh nghiệp KCN. Nếu doanh nghiệp khó khăn về vốn đầu tư cho xử lý chất thải, Ban Quản lý các KCN tỉnh cần phối hợp với Sở TN và MT kiến nghị Quỹ BVMT quốc gia hoặc đề nghị Quỹ BVMT của tỉnh hỗ trợ hoặc cho doanh nghiệp vay ưu đãi để đầu tư xây dựng các công trình xử lý nước thải đảm bảo quy định. Ban Quản lý các KCN tỉnh, Sở TN và MT xây dựng chương trình hỗ trợ về kỹ thuật xử lý nước thải để hướng dẫn các doanh nghiệp trong KCN. Đặc biệt, cần nghiên cứu và áp dụng các biện pháp cụ thể tại từng KCN. Đối với KCN Hòa Xá do đã lấp đầy 100% diện tích, hiện tại, hệ thống hạ tầng kỹ thuật của KCN phục vụ việc thu gom, xử lý nước thải đã hoàn chỉnh bao gồm: Hệ thống thoát nước mưa, nước thải riêng biệt, trạm xử lý nước thải tập trung công suất giai đoạn 1 là 4.500 m3/ngày đêm. Để hệ thống hạ tầng KCN nhanh chóng được khai thác và phát huy hiệu quả cần giao quyền tự chủ về thu - chi cho Cty Phát triển và Khai thác hạ tầng KCN để đơn vị này chịu trách nhiệm về chất lượng nước thải của KCN, mọi chi phí cho hoạt động thường xuyên của Trạm xử lý nước thải tập trung do đơn vị tự cân đối. Cty Phát triển và Khai thác hạ tầng KCN phải hướng dẫn, rà soát đảm bảo 100% nước thải ra của các đơn vị thứ cấp được thu về trạm xử lý nước thải tập trung để xử lý. Đối với KCN Mỹ Trung và KCN Bảo Minh, do vẫn ở trong giai đoạn vừa triển khai xây dựng vừa khai thác nên hệ thống hạ tầng của KCN chưa đảm bảo. Trước mắt, đối với các dự án đầu tư mới và cả các dự án đang triển khai hoạt động cần phải ký cam kết thỏa thuận với Cty Phát triển và Khai thác hạ tầng KCN tự xử lý nước thải phát sinh của đơn vị đạt yêu cầu đầu ra của nước thải toàn KCN đã được quy định trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN, đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng thoát nước mưa, nước thải riêng biệt; khẩn trương đầu tư xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung cho toàn KCN. Tiếp tục thu hút các dự án đầu tư theo đúng quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt và ngành nghề đã được quy định trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt./.

Bài và ảnh: Thuý Vy



BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com