Bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn Tuấn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh tại kỳ họp

09:07, 12/07/2010

 

,
 
Kính thưa:
- Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ;
- Chủ toạ kỳ họp;
- Thưa các vị đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu HĐND tỉnh và các vị đại biểu tham dự kỳ họp;
- Thưa toàn thể nhân dân.

Trước hết, tôi xin thay mặt UBND tỉnh cảm ơn Thường trực HĐND, các vị đại biểu HĐND tỉnh về những đánh giá sự nỗ lực, cố gắng của các ngành, các cấp trong thời gian qua. Đồng thời cảm ơn các vị đại biểu HĐND và cử tri toàn tỉnh đã quan tâm đến những nội dung kiến nghị và chất vấn. Tôi xin trân trọng tiếp thu và làm rõ một số nội dung sau:

A. Về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2010:

Trong 6 tháng đầu năm 2010, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, sự giám sát chặt chẽ của HĐND, sự chỉ đạo tập trung, năng động, quyết liệt của chính quyền các cấp, sự phối hợp thường xuyên tích cực của MTTQ và các đoàn thể, cùng sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, của quân và dân trong tỉnh; chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức: Bằng biện pháp làm tốt thuỷ lợi nội đồng chúng ta đã chủ động hoàn toàn công tác phòng, chống hạn; khống chế bệnh lùn sọc đen ngay từ khi xử lý hạt giống; hỗ trợ 19 tỷ đồng bằng thuốc đặc hiệu cho nông dân trừ rầy; khoanh vùng, dập dịch tai xanh ở lợn không để lây ra diện rộng. Điều hành linh hoạt tiết giảm, khắc phục tình trạng thiếu điện, nhất là điện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương trong việc khai thông các nguồn vốn cho đầu tư phát triển và sản xuất kinh doanh. Thực hiện có hiệu quả công tác khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư. Đẩy mạnh cải cách hành chính, từng bước cải thiện môi trường đầu tư. Giải quyết kịp thời các chế độ, chính sách, đảm bảo an sinh xã hội… Kết quả cụ thể là:

1. Hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và tăng cao hơn so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế tăng 8,1% cao hơn mức bình quân chung của cả nước (6,2%).

2. Lĩnh vực đầu tư phát triển:

Tập trung huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; đồng thời tích cực tranh thủ sự ủng hộ của các Bộ, ngành Trung ương; đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các dự án, công trình trọng điểm, các dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển do tỉnh quản lý, điều hành 6 tháng đạt 1.752,9 tỷ đồng, tăng 647,7 tỷ đồng so kế hoạch giao đầu năm. Ước thực hiện vốn đầu tư phát triển xã hội 6 tháng đạt 4.009 tỷ đồng tăng 27% so với cùng kỳ, trong đó vốn ngân sách Nhà nước là 950 tỷ đồng.

UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, chủ đầu tư phối hợp đẩy nhanh tiến độ GPMB, triển khai, thi công, hoàn thành các công trình cấp bách phòng chống lụt bão trước mùa mưa bão; các công trình xây dựng thành phố Nam Định theo hướng trở thành thành phố Trung tâm vùng Nam đồng bằng Sông Hồng. Các huyện Nam Trực, Xuân Trường và thành phố Nam Định hoàn thành GPMB Quốc lộ 21.1; huyện Mỹ Lộc và thành phố Nam Định đã hoàn thành GPMB đường BOT; huyện Ý Yên cơ bản hoàn thành GPMB đường cao tốc đi qua địa bàn. Huyện Nghĩa Hưng làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt chế độ, chính sách GPMB, nhiều hộ gia đình tự nguyện hiến đất để làm đường giao thông, ích nước lợi nhà.

Trong 6 tháng đầu năm đã hoàn thành, đưa vào sử dụng một số dự án công trình: Nạo vét, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi sông Sò với tổng mức đầu tư 111,4 tỷ đồng; kiên cố kênh chính trạm bơm Cổ Đam với mức đầu tư 84,69 tỷ đồng; xử lý đê, kè Kiên Chính với mức đầu tư 72,5 tỷ đồng; kè Công Đoàn - Đồng Hiệu và 8 mỏ kè đông cống Thanh Niên với mức đầu tư 70,9 tỷ đồng; 13 cống dưới đê; cứng hoá 26km mặt đê; 2 bãi đỗ xe Đền Trần, đường Trần Thừa thuộc dự án Văn hoá Trần; 41 trụ sở xã, 898 phòng học, 9 công trình bệnh viện huyện.

Tiến độ xây dựng các tuyến đường Quốc lộ 21 Nam Định - Thịnh Long, đường 490C (55 cũ), đường BOT, các tuyến đường trục của các huyện,… được đẩy mạnh. Đang triển khai các bước lập đề án Quy hoạch Khu kinh tế Ninh Cơ; ký ghi nhớ với nhà đầu tư Hàn Quốc xây dựng nhà máy Nhiệt điện Nam Định theo hình thức BOT, công suất 2.400 MW với tổng vốn đầu tư khoảng 4,5 tỷ USD.

3. Lĩnh vực tài chính, tín dụng: Để huy động các nguồn vốn đáp ứng cho mục tiêu phục hồi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng; có biện pháp giảm lãi suất cho vay; công khai thủ tục cho vay; phân loại rõ dự án được hỗ trợ lãi suất; tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh tiếp cận nguồn vốn tín dụng… Tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng ước đạt 14.313 tỷ đồng, tăng 1.418 tỷ đồng so với đầu năm; trong đó dư nợ cho vay được hỗ trợ lãi suất là 1.084 tỷ đồng. Thu ngân sách tăng 5% so với cùng kỳ. Đảm bảo kịp thời các khoản chi đột xuất của tỉnh.

4. Lĩnh vực giáo dục, y tế, đảm bảo an sinh xã hội, văn hoá, thể dục thể thao tiếp tục được giữ vững và phát triển:

Về giáo dục - đào tạo: Tỉnh ta tiếp tục đạt được thành tích cao mới, dẫn đầu toàn quốc về tỷ lệ giải thưởng thi học sinh giỏi quốc gia và thi tốt nghiệp bậc THPT.

Về y tế: Thường xuyên chăm lo giáo dục y đức cho đội ngũ thầy thuốc. Chú trọng phòng chống dịch bệnh, chăm sóc khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo và toàn dân.

Về an sinh xã hội: Giải quyết kịp thời các chế độ, chính sách cho các đối tượng. Tổ chức đón Tết Nguyên đán an toàn, tiết kiệm, vui tươi, lành mạnh cho nhân dân, đảm bảo ai cũng có tết. Tặng quà cho các đối tượng chính sách và hỗ trợ cho người nghèo ăn Tết với tổng số tiền là 16,5 tỷ đồng. Cho các hộ nghèo vay để phát triển sản xuất 50,5 tỷ đồng; cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay 180 tỷ đồng; cho vay giải quyết việc làm 4,3 tỷ đồng; cho vay làm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 5,1 tỷ đồng. Khai trương và đưa sàn giao dịch việc làm vào hoạt động, bước đầu mang lại hiệu quả. Giải quyết việc làm cho 14.308 người. Xây dựng và triển khai Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn với tổng mức đầu tư gần 1.000 tỷ đồng, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn.

5. Công tác nội vụ và cải cách hành chính được thực hiện tốt: Tổ chức được nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã; ra Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của một số sở, ngành. Hoàn thành việc rà soát và công bố bộ thủ tục hành chính giai đoạn II; cắt giảm, điều chỉnh 63% thủ tục hành chính. Đã đưa hệ thống truyền hình trực tuyến vào phục vụ các hội nghị của tỉnh với các huyện, thành phố.

6. An ninh, quốc phòng: Tiếp tục được giữ vững tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Hoàn thành giao quân đợt 1 đảm bảo đúng luật. Công tác phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, phòng cháy chữa cháy được thực hiện quyết liệt và có kết quả tốt; tai nạn giao thông giảm cả 3 chỉ tiêu.

Đề nghị HĐND tỉnh nhiệt liệt hoan nghênh những kết quả đã đạt được của tỉnh nhà trong 6 tháng đầu năm.

B. Những nhiệm vụ và biện pháp trọng tâm phát triển kinh tế -xã hội 6 tháng cuối năm 2010:

Thời gian 6 tháng cuối năm sẽ diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 18 và tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu do đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17 đề ra. Chúng ta cần ra sức khắc phục những yếu kém, tập trung mọi nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Các nhiệm vụ và biện pháp trọng tâm của 6 tháng cuối năm 2010, UBND tỉnh đã trình bày cụ thể trong báo cáo, tôi nhấn mạnh một số nhiệm vụ và giải pháp lớn sau:

1. Khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho sản xuất vụ mùa, vụ đông trên đất 2 lúa, nhất là điện, giá và chất lượng vật tư nông nghiệp; đảm bảo lịch gieo trồng trong khung thời vụ tốt nhất; triển khai ngay từ đầu các biện pháp phòng chống dịch bệnh và thâm canh cây trồng. Chỉ đạo, thực hiện tốt công tác phòng chống dịch trên đàn gia súc, gia cầm. Tích cực xây dựng Quy hoạch sản xuất nông nghiệp gắn với hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, nuôi trồng thủy sản. Làm tốt công tác thủy lợi nội đồng, kiên cố hoá kênh mương cấp 3 theo nguồn vốn đã phân bổ cho các huyện, thành phố.

Tập trung cao cho công tác phòng chống lụt bão, tăng cường công tác tuần đê nhân dân, phát hiện và xử lý kịp thời các sự cố xảy ra, chấp hành nghiêm chế độ thường trực phòng chống lụt bão, thực hiện tốt phương châm "4 tại chỗ", đảm bảo an toàn ở mức cao nhất cho người và tài sản của nhân dân, cho các tuyến đê sông, đê biển.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền xây dựng mô hình nông thôn mới để cán bộ, nhân dân hiểu: Xây dựng nông thôn mới là quá trình thường xuyên, lâu dài và liên tục, được thực hiện theo phương châm "nhân dân và Nhà nước cùng làm"; trong đó, vốn do nhân dân đóng góp và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác được xác định là nguồn vốn chủ yếu. Các xã thực hiện thí điểm cần phải xây dựng được lộ trình thích hợp, các bước đi cụ thể, phù hợp với điều kiện của địa phương để xây dựng nông thôn mới; trước hết là hoàn thành công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch đồng ruộng, chuẩn hoá trường lớp học, chuẩn hoá về y tế và tập trung cho sản xuất. Từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban nông nghiệp xã.

Tăng cường công tác quản lý đất đai theo kế hoạch. Tổ chức Đoàn kiểm tra liên ngành đối với các dự án trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, có biện pháp xử lý kịp thời để sử dụng đất đúng mục đích, có hiệu quả.

2. Ưu tiên nguồn điện và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh tiếp cận nguồn vốn ngân hàng; đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề với những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh; thúc đẩy tiêu thụ mạnh hàng hoá; giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Thực hiện tốt cuộc vận động của Bộ Chính trị "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam".

Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường đối với các loại hàng hoá thiết yếu, không để xảy ra tăng giá đột biến, chống lạm phát; nhất là giá và chất lượng các loại vật tư nông nghiệp, thuốc chữa bệnh cho người và mặt hàng sữa, an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu, phấn đấu vượt chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2010.

3. Đề nghị MTTQ và các đoàn thể phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cấp chính quyền, vận động nhân dân ủng hộ, tập trung đẩy nhanh tiến độ GPMB, tạo điều kiện thúc đẩy tiến độ thi công các dự án giao thông, thủy lợi, công trình phòng chống lụt bão. Phấn đấu thông xe kỹ thuật Quốc lộ 21 Nam Định - Thịnh Long, cơ bản thông xe kỹ thuật đường BOT, hoàn thành nền đường 490C giai đoạn I. Khẩn trương chuẩn bị các thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch Khu kinh tế Ninh Cơ và dự án Trung tâm thể dục thể thao. Hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư Hàn Quốc triển khai các thủ tục đầu tư, xây dựng Nhà máy nhiệt điện Nam Định.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án thuộc lĩnh vực y tế, giáo dục sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ; dự án thoát nước T311 và các dự án điểm nhấn của thành phố Nam Định trung tâm vùng, trong đó có đường nối đường Đông A đến đường Trần Hưng Đạo do UBND thành phố làm chủ đầu tư (dự án này đã được phê duyệt với tổng mức đầu tư hơn 100 tỷ đồng, vốn đã được phân bổ, vấn đề còn lại là thành phố đang giải phóng mặt bằng). Phấn đấu hoàn thành kiên cố hoá 532 phòng học và 3 bệnh viện tuyến huyện. Đưa Trung tâm truyền hình khu vực vào hoạt động. Vận hành Nhà máy xử lý nước thải Khu công nghiệp Hoà Xá.

Xúc tiến các nguồn vốn cho dự án đường 56, đường 12, đường nối Quốc lộ 10 với Quốc lộ 21 có cầu Tân Phong qua sông Đào; dự án kè nam sông Đào - thành phố Nam Định; dự án Trung tâm thể dục thể thao; các dự án kiên cố hoá đê, kè biển và đê sông xung yếu, phòng chống nước biển dâng cao; các dự án hạ tầng giáo dục, y tế…

Về cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay, chủ đầu tư được giao quyền và trách nhiệm rất rộng, bao gồm cả việc lựa chọn và quyết định các nhà thầu trúng thầu thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Do đó, các đồng chí Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, giám đốc các sở, ngành và thủ trưởng các đơn vị khi được giao làm chủ đầu tư phải đặc biệt chú ý lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực để đảm bảo tiến độ thi công. Trong thương thảo hợp đồng phải có điều khoản ràng buộc trách nhiệm của nhà thầu về tiến độ, chất lượng và mỹ thuật công trình.

4. Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thu nộp các khoản thu vào ngân sách Nhà nước, trước hết là các khoản thu nợ thuế và thu từ đất; phấn đấu thu vượt dự toán ngân sách Nhà nước năm 2010. Yêu cầu các chủ đầu tư thanh toán vốn theo tiến độ thực hiện và quyết toán công trình, hoàn thành đưa vào sử dụng để phát huy hiệu quả vốn đầu tư.

5. Triển khai thực hiện thành công Lễ hội kỷ niệm 710 năm ngày hoá đức Thánh Trần (1300-2010) trong Chương trình đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Chỉ đạo tốt công tác phòng chống dịch bệnh và công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách và người nghèo.

6. Tổ chức tuyên truyền, vận động thực hiện tốt bộ thủ tục hành chính đã được công bố; triển khai thực hiện giai đoạn III của cải cách hành chính. Tiếp tục thực hiện phân cấp một số lĩnh vực cho các huyện, thành phố. Tiến hành tổng kết 10 năm cải cách hành chính và tổng kết bước 1 công tác không tổ chức HĐND huyện, phường theo hướng dẫn của Ban chỉ đạo Trung ương.

7. Tiếp tục giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đảm bảo an toàn đại hội Đảng các cấp và các ngày lễ kỷ niệm trọng đại của đất nước. Thực hiện nghiêm Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí và phòng chống tham nhũng. Tập trung chỉ đạo tốt công tác giải quyết khiếu nại tố cáo; nhất là những khiếu nại, tố cáo liên quan đến GPMB, đất đai ngay từ cơ sở. Tăng cường công tác đảm bảo an toàn giao thông, bao gồm cả đường bộ, đường sông và đường sắt. Làm tốt hơn nữa công tác phòng chống tệ nạn xã hội.

C. Về một số đề xuất, kiến nghị của cử tri:

UBND tỉnh đã giao cho các đồng chí lãnh đạo các sở trả lời các nội dung chất vấn của các vị đại biểu HĐND tỉnh, thể hiện thái độ nghiêm túc, trách nhiệm của UBND tỉnh và các ngành trước HĐND tỉnh và nhân dân. Sau đây, tôi xin tiếp thu và làm rõ một số vấn đề các đại biểu HĐND tỉnh và nhân dân quan tâm.

I - Nông nghiệp - Tài nguyên môi trường:

1. Cử tri một số huyện đề nghị tỉnh tiếp tục có các chính sách quan tâm đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân; đặc biệt là có các biện pháp hỗ trợ về giá vật tư - "đầu vào", tạo điều kiện để tiêu thụ sản phẩm - "đầu ra" trong nông nghiệp và tăng cường quản lý Nhà nước về chất lượng vật tư nông nghiệp:

- Thời gian qua, tỉnh đã chỉ đạo: Đẩy mạnh chương trình xoá đói, giảm nghèo; thực hiện miễn giảm thủy lợi phí; triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, chương trình nước sạch và VSMT nông thôn; hỗ trợ phát triển làng nghề; hỗ trợ thiên tai dịch bệnh; đầu tư cải tạo nâng cấp hệ thống điện nông thôn… Tỉnh cũng đã ban hành một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp như: Hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ giống lúa lai, giống thủy sản; kho lạnh bảo quản giống cây vụ đông; kiên cố hoá kênh mương hàng nghìn tỷ đồng… UBND tỉnh đã quyết định hỗ trợ 10 xã thực hiện thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới với mức 8-10 tỷ đồng/xã (sẽ được tổng kết và nhân ra diện rộng); hỗ trợ cho các xã, thị trấn xây dựng quy hoạch nông thôn, rà soát, xây dựng quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, thủy sản đến năm 2020. Tỉnh đang triển khai Đề án đào tạo nghề cho nông dân với mức đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng. Trong điều kiện ngân sách tỉnh còn nhiều hạn chế, những chính sách trên thể hiện sự quan tâm rất lớn của tỉnh đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Tiếp thu kiến nghị của cử tri, trong thời tới, căn cứ vào khả năng ngân sách UBND tỉnh sẽ nghiên cứu tiếp một số đề nghị trên. Đồng thời, tạo điều kiện cho các địa phương xây dựng thương hiệu hàng hoá nông sản, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chế biến sản phẩm nông nghiệp về nông thôn tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

- Về tăng cường quản lý Nhà nước đối với chất lượng vật tư nông nghiệp: UBND tỉnh chỉ đạo cơ quan quản lý thị trường phối hợp với các ngành thường xuyên kiểm tra quyết liệt, xử lý nghiêm những vi phạm nên nhiều năm qua ở tỉnh ta không để xảy ra các trường hợp vi phạm lớn, gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Nhưng do thị trường kinh doanh vật tư nông nghiệp rất phức tạp, khả năng quản lý của chính quyền ở một số xã, thị trấn còn có hạn nên cá biệt vẫn còn tình trạng buôn bán vật tư nông nghiệp kém chất lượng. Hiện nay, Ban nông nghiệp xã đã được thành lập ở tất cả các xã, thị trấn; đây là điều kiện rất thuận lợi cho công tác quản lý Nhà nước về vật tư nông nghiệp. UBND tỉnh yêu cầu UBND các huyện, thành phố chỉ đạo các xã, thị trấn phát huy tốt vai trò của Ban nông nghiệp xã trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng, tăng cường kiểm tra, quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là chất lượng vật tư nông nghiệp trên địa bàn.

2. Cử tri các huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu đề nghị tỉnh có cơ chế hỗ trợ diêm dân sản xuất muối; kiến nghị với cấp có thẩm quyền không nhập khẩu muối để bình ổn giá, giảm bớt khó khăn cho diêm dân.

- UBND tỉnh đã có Quyết định số 10 ngày 27-6-2008 về việc ban hành quy định quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp đối với hoạt động khuyến khích phát triển một số ngành nghề nông thôn Nam Định; trong đó có cơ chế hỗ trợ diêm dân sản xuất muối.

- Tỉnh đã nhiều lần kiến nghị với Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương hạn chế nhập khẩu muối. Hiện nay, Chính phủ đã có chủ trương chỉ nhập khẩu muối phục vụ ngành công nghiệp hóa chất; không nhập muối ăn. Bộ NN-PTNT cũng đã chỉ đạo Tổng Cty lương thực miền Bắc mua muối tạm trữ với số lượng 200 nghìn tấn, thời gian thực hiện từ 1-6 đến 30-9-2010.

3. Cử tri huyện Mỹ Lộc, Nghĩa Hưng đề nghị tỉnh tổ chức hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm và có hướng dẫn cụ thể để đảm bảo hiệu quả hoạt động của Ban nông nghiệp xã.

UBND tỉnh đã có kế hoạch chỉ đạo các ngành chức năng chuẩn bị để tổ chức Hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm về hoạt động của Ban nông nghiệp xã, trên cơ sở đó có hướng dẫn cụ thể để tạo điều kiện cho Ban nông nghiệp xã hoạt động tốt hơn.

4. Cử tri huyện Vụ Bản đề nghị tỉnh hỗ trợ kinh phí cho các HTX nông nghiệp ở những vùng phải bơm tát cục bộ và tăng mức hỗ trợ kiên cố hoá kênh mương lên 130 đến 150 triệu đồng/1km.

Năm 2010, UBND tỉnh thực hiện hỗ trợ kinh phí kiên cố hoá kênh mương cấp 3 cho các huyện, thành phố với số tiền là 40 tỷ đồng: Đối với những kênh, mương có đủ tiêu chuẩn về yêu cầu kỹ thuật (có hướng dẫn cụ thể sau) sẽ được hỗ trợ 200 triệu/km; phần còn lại được huy động từ nhân dân và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.

5. Cử tri các huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu đề nghị tỉnh kiến nghị với Trung ương kiên cố hoá đê biển đoạn từ Giao Phong đến Quất Lâm; nâng cấp đê sông Sò; xử lý một số đoạn xung yếu của đê Hữu Hồng và triển khai nâng cấp, cải tạo mặt đê tả Sông Ninh.

- UBND tỉnh đã có Quyết định phê duyệt Dự án kiên cố hoá, nâng cấp một số đoạn đê biển, trong đó có đoạn từ Giao Phong (tiếp giáp với đoạn kè đã làm) đến Quất Lâm. Hiện nay, Sở NN-PTNT đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư để trình UBND tỉnh (dự kiến triển khai thi công trong tháng 8-2010).

- UBND tỉnh đã giao Sở NN-PTNT lập Dự án củng cố, nâng cấp đê tả hữu sông Sò để trình UBND tỉnh phê duyệt trong tháng 7-2010.

- UBND tỉnh đã trình Chính phủ và các bộ ngành Trung ương bố trí vốn tu sửa, xử lý một số đoạn xung yếu của đê Hữu Hồng (như kè Giao Hương, kè Cống Chúa…). Trong khi chờ vốn của Trung ương, UBND tỉnh yêu cầu UBND huyện Giao Thuỷ phối hợp chặt chẽ với Sở NN- PTNT theo dõi, xử lý kịp thời các sự cố, đảm bảo an toàn ở mức cao nhất cho các tuyến đê xung yếu trong mùa mưa bão.

- Thực hiện Quyết định số 2068 ngày 9-12-2009 của Thủ tướng Chính phủ; UBND tỉnh đã xây dựng Kế hoạch củng cố, nâng cấp hệ thống đê sông, trong đó có cải tạo, nâng cấp mặt đê tả sông Ninh Cơ. Việc triển khai thực hiện sẽ được tiến hành từ năm 2011.

6. Cử tri huyện Nghĩa Hưng đề nghị tỉnh đầu tư cải tạo, nâng cấp các công trình thuỷ lợi phục vụ thau chua rửa mặn, đảm bảo an toàn cho sản xuất nông nghiệp.

UBND tỉnh đã giao Sở NN-PTNT lập dự án củng cố, nâng cấp đê tả sông Đáy huyện Nghĩa Hưng (đây là nguồn cung cấp nước chính của huyện); trong đó có cải tạo, xây mới các cống dưới đê đáp ứng yêu cầu lấy nước phục vụ thau chua, rửa mặn. UBND tỉnh chỉ đạo các Cty TNHH một thành viên KTCTTL giành một phần kinh phí cấp bù miễn thuỷ lợi phí để nạo vét kênh mương, củng cố các đập điều tiết, phân vùng tưới tiêu để phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp.

7. Cử tri huyện Ý Yên, Nam Trực, Mỹ Lộc đề nghị tỉnh đầu tư, nâng cấp một số đoạn đê bối đã xuống cấp và làm đường cứu hộ cho vùng đê bối, thoát hiểm cho nhân dân.

UBND tỉnh đã trình các bộ, ngành Trung ương: Danh mục các đường cứu hộ, cứu nạn cho nhân dân vùng lũ, trong đó có nâng cấp tuyến đê bối Yên Trị, bối Thắng Thịnh, các đường cứu hộ trong tuyến đê bối và kế hoạch thực hiện chương trình nâng cấp hệ thống đê sông đến năm 2020 theo Quyết định số 2068 ngày 9-12-2009 của Thủ tướng Chính phủ. Khi có nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, UBND tỉnh sẽ triển khai các dự án nâng cấp trên theo quy định.

8. Cử tri huyện Mỹ Lộc đề nghị tỉnh tiếp tục chỉ đạo dồn điền đổi thửa.

Luật Đất đai năm 2003 đã có quy định khuyến khích hộ gia đình, cá nhân được giao đất thực hiện dồn điền đổi thửa để giảm bớt số lượng thửa ruộng của mỗi hộ gia đình, cá nhân. UBND tỉnh luôn khuyến khích việc này, nhưng lưu ý UBND các huyện, thành phố phải chỉ đạo dồn điền, đổi thửa theo quy hoạch để phục vụ cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp có hiệu quả.

9. Cử tri các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ, Mỹ Lộc, Nghĩa Hưng, Nam Trực và Ý Yên đề nghị tỉnh quan tâm hơn nữa đến công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường; hỗ trợ thêm kinh phí xây dựng khu vực chôn lấp, xử lý rác thải tập trung và triển khai các dự án nước sạch tại các địa phương.

- Về vấn đề tuyên truyền, xử lý rác thải, đảm bảo môi trường:

Hàng năm, UBND tỉnh đều triển khai kế hoạch bảo vệ môi trường và tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về công tác bảo vệ môi trường. Từ năm 2006 đến nay, tỉnh tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt của các đoàn thể về pháp luật bảo vệ môi trường (riêng năm 2009, 2010 tổ chức được 20 lớp); đã xây dựng được 28 mô hình bảo vệ môi trường của các tổ chức đoàn thể; 3 lớp tập huấn kiến thức về thu gom, vận hành bãi rác; 3 hội nghị về quản lý chất thải nguy hại; 2 hội nghị về biến đổi khí hậu… Thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường.

Từ năm 2007 đến nay, mỗi năm tỉnh ta giành ra 1% tổng chi ngân sách thường xuyên cho công tác bảo vệ môi trường. Qua 4 năm thực hiện, đến nay toàn tỉnh đã và đang thực hiện được 49 dự án bãi chôn lấp xử lý rác thải hợp vệ sinh ở 46 xã, thị trấn; 3 dự án xây dựng các bãi trung chuyển rác thải và chất thải nguy hại; 4 nhà máy xử lý nước thải trong các khu, cụm công nghiệp; 10 dự án hỗ trợ các bệnh viện xây dựng các công trình xử lý chất thải; 6 dự án cho nhà máy xử lý rác thải thành phố và hỗ trợ cho 46 dự án xử lý môi trường khác. Những làng nghề có ô nhiễm cao đều đã được tỉnh hỗ trợ kinh phí để xây dựng bãi rác hoặc trạm xử lý nước thải.

Thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục triển khai các dự án xây dựng khu vực chôn lấp, xử lý rác thải tập trung tại các địa phương để đảm bảo sức khoẻ người dân, đặc biệt là người dân sinh sống ở các làng nghề hoặc gần các khu, cụm công nghiệp. Đề nghị các huyện, thành phố làm tốt quy hoạch thực hiện xây dựng các hố xử lý rác thải.

- Về xây dựng các dự án nước sạch:

Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường, từ năm 2006 đến nay, tỉnh ta đã và đang triển khai 37 dự án nước sạch gồm: 27 dự án từ nguồn vốn WB với tổng mức đầu tư 33,7 triệu USD; 8 dự án từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia với tổng mức đầu tư trên 67 tỷ đồng. Trong đó, đã hoàn thành đưa vào sử dụng 5 công trình (Vụ Bản 1, Xuân Trường 4) với tổng số tiền đã giải ngân là 35 tỷ đồng; năm 2010 dự kiến sẽ hoàn thành thêm 14 công trình (Nam Trực 6, Mỹ Lộc 4, Trực Ninh 2, Vụ Bản 2) với tổng kinh phí đầu tư trên 165 tỷ đồng. Trong các năm tiếp theo, tỉnh tiếp tục triển khai chương trình này.

10. Cử tri huyện Vụ Bản, Nam Trực phản ánh về tình trạng khai thác cát trái phép trên một số tuyến sông.

UBND tỉnh đã nhiều lần chỉ đạo Sở TNMT chủ trì phối hợp với Công an tỉnh và các địa phương tổ chức kiểm tra khai thác cát sông, không làm ảnh hưởng đến dòng chảy và đê điều.

Thực tế, tại các điểm mỏ đã được quy hoạch để phục vụ cho việc san lấp mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng trong tỉnh; việc khai thác cát sông được đảm bảo đúng quy định. Tình trạng khai thác chỉ diễn ra phức tạp ở một số nơi chưa được cấp phép như: khu vực xã Tân Thịnh, Nam Hồng (NT); bờ hữu sông Đào (VB)… Đây là những nơi có các phương tiện khai thác cát lưu động, phân tán, nhỏ lẻ, không cố định về thời gian. Sở TNMT đã tổ chức nhiều đợt kiểm tra nhưng tình trạng khai thác cát trái phép vẫn diễn ra hết sức phức tạp.

Để xử lý tình trạng trên, giải pháp về lâu dài là UBND tỉnh nghiên cứu hoàn thiện quy hoạch khai thác cát, trình HĐND tỉnh phê duyệt để làm căn cứ cấp phép và giao cho các chủ mỏ quản lý. Trước mắt, UBND tỉnh yêu cầu Sở TNMT phối hợp chặt chẽ với Công an đường sông và các địa phương tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát; có biện pháp xử lý nghiêm đối với: các tàu hút cát trái phép trên sông, các điểm thu mua, tập kết cát không đúng quy định… để không làm ảnh hưởng đến dòng chảy và đê điều.

11. Cử tri huyện Mỹ Lộc đề nghị tỉnh: Đôn đốc, chỉ đạo xử lý một số dự án đã được cấp phép đầu tư xây dựng nhưng không triển khai và đẩy nhanh tiến độ thi công kênh xả Mỹ Tân.

- Về việc xử lý một số dự án chậm triển khai:

Năm 2009, UBND tỉnh thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra các dự án và ban hành Văn bản số 116 ngày 24-9-2009 để chỉ đạo hướng giải quyết đối với các dự án chậm triển khai. Kết quả là, đến nay đã có thêm 16 dự án hoàn thành đi vào hoạt động.

Năm 2010, UBND tỉnh có Kế hoạch số 14 ngày 10-6-2010 về việc kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai của các cơ quan, tổ chức sử dụng đất. UBND tỉnh đã thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành để tiến hành tổng rà soát tất cả các dự án được giao đất, cho thuê đất. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, UBND tỉnh sẽ có biện pháp xử lý kịp thời để đảm bảo việc sử dụng đất đúng mục đích, có hiệu quả.

- Về thi công kênh xả Mỹ Tân:

Hạng mục kênh xả Mỹ Tân nằm trong dự án xây dựng trạm bơm Quán Chuột do UBND thành phố Nam Định làm chủ đầu tư. Trong quá trình thi công, nhân dân thôn Tân Đệ, xã Mỹ Tân có kiến nghị thiết kế kênh kín. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND thành phố Nam Định tiếp thu, hoàn chỉnh phương án đậy nắp kênh xả đoạn qua khu dân cư. Hiện nay, nhà thầu đang thi công đắp đất kênh xả trên phần mặt bằng đã được bàn giao là 600m; 700m còn lại có vướng mắc trong công tác GPMB. UBND tỉnh đề nghị UBND huyện Mỹ Lộc và cử tri xã Mỹ Tân quan tâm đẩy nhanh tiến độ GPMB, bàn giao mặt bằng cho nhà thầu thi công đúng tiến độ.

II. Về giao thông, xây dựng:

1. Cử tri các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng đề nghị tỉnh tiếp tục đôn đốc đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ thi công Quốc lộ 21B, Tỉnh lộ 490; sửa chữa hệ thống kênh tiêu thoát nước tại địa phận xã Xuân Ninh bị hư hỏng do thi công gây ra.

- Hiện nay, các dự án này đang trong tình trạng tiền và nhà thầu chờ mặt bằng. Đề nghị nhân dân trên địa bàn có dự án đi qua tích cực ủng hộ thực hiện tốt công tác GPMB để đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ.

- UBND tỉnh đã giao cho các ngành chức năng của tỉnh kiểm tra và yêu cầu chủ đầu tư, đơn vị thi công thực hiện đúng các quy định về đảm bảo an toàn giao thông và sửa chữa  một số kênh tiêu thoát nước bị hư hỏng do thi công gây ra. Chủ đầu tư (Ban quản lý dự án 2) đã tiếp thu và chỉ đạo đơn vị thi công khắc phục.

2. Cử tri các huyện Hải Hậu, Trực Ninh, Giao Thuỷ đề nghị tỉnh cho đầu tư, nâng cấp các Tỉnh lộ: 486B, 488 và 489.

UBND tỉnh đã trình Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương bố trí vốn từ nguồn trái phiếu Chính phủ để thực hiện các dự án trên. Khi được Chính phủ hỗ trợ vốn, tỉnh sẽ triển khai thi công (Các dự án trên có tổng mức đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng/1 dự án).

III. Lĩnh vực tài chính - tín dụng:

1. Cử tri các huyện Xuân Trường, Vụ Bản, Trực Ninh đề nghị tỉnh tăng tỷ lệ điều tiết từ nguồn cấp quyền sử dụng đất cho cấp xã lên từ 50 đến 70% để các xã có nguồn vốn đối ứng xây dựng cơ sở hạ tầng.

UBND tỉnh sẽ nghiên cứu, xem xét trình HĐND tỉnh thay đổi tỷ lệ điều tiết khoản thu cấp quyền sử dụng đất cho các cấp ngân sách vào năm 2011 (là năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách 2011-2015) theo hướng: Sau khi thực hiện thu lập quỹ phát triển đất theo quy định của Chính phủ sẽ tăng tỷ lệ điều tiết khoản thu tiền sử dụng đất cho ngân sách cấp xã để các xã có nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.

2. Cử tri thành phố Nam Định đề nghị tỉnh nâng mức thu phí dịch vụ trông coi phương tiện quy định tại Nghị quyết 63 của HĐND tỉnh.

Phí trông coi xe đạp, xe máy, ô tô là khoản phí thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND tỉnh. Các mức thu quy định tại Nghị quyết số 63 của HĐND tỉnh đã áp dụng mức tối đa trong khung quy định của Bộ Tài chính. Đến nay, Bộ tài chính chưa có Thông tư sửa đổi, bổ sung nên UBND tỉnh chưa có căn cứ để trình HĐND tỉnh điều chỉnh.

3. Cử tri huyện Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng đề nghị tỉnh tăng mức kinh phí hỗ trợ thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư".

Kinh phí thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động được quy định tại Thông tư liên tịch số 02 ngày 10-01-2002 của Bộ Tài chính và Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam với mức chi là 1 triệu đồng/năm/khu dân cư. Tỉnh Nam Định đã thực hiện đúng quy định của Trung ương.

4. Cử tri huyện Trực Ninh đề nghị tỉnh nâng mức hỗ trợ kinh phí xây dựng phòng học bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.

Đề án Kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên của Bộ GD-ĐT được Chính phủ phê duyệt thực hiện từ năm 2008 với tổng kinh phí hỗ trợ cho mỗi phòng học là 117 triệu đồng (Trung ương hỗ trợ 87 triệu đồng, tương đương 55% suất đầu tư cho một phòng học; tỉnh hỗ trợ 30 triệu đồng).

Khi đề án đưa vào thực hiện, giá cả tăng nhanh dẫn tới suất đầu tư của mỗi phòng học tăng cao so với khi xây dựng đề án nên phần vốn đối ứng của các xã, thị trấn có phòng học kiên cố hoá tăng lên nhiều và huy động rất khó khăn. Vấn đề này, tỉnh đã phản ánh nhiều lần lên Chính phủ. Khi chính phủ có quyết định bổ sung, nâng mức hỗ trợ cho mỗi phòng học kiên cố hoá, tỉnh sẽ thực hiện nâng mức hỗ trợ theo quy định.

5. Cử tri huyện Trực Ninh đề nghị tỉnh nâng mức hỗ trợ kinh phí xây dựng trụ sở Đảng uỷ - HĐND - UBND các xã, thị trấn.

Nhu cầu đầu tư nâng cấp, xây dựng mới trụ sở xã ở tỉnh là rất lớn, trong khi ngân sách Trung ương mới chỉ hỗ trợ một phần rất nhỏ (năm 2009, 2010 mỗi năm 4 tỷ đồng). Trong điều kiện nguồn thu ngân sách của tỉnh còn có hạn, để từng bước tháo gỡ khó khăn về trụ sở làm việc cho bộ máy cấp xã, từ năm 2007 đến nay ngân sách tỉnh đã tiết kiệm chi thường xuyên mỗi năm trên 20 tỷ đồng để hỗ trợ đầu tư nâng cấp, xây dựng các trụ sở cấp xã với mức hỗ trợ xây mới là: 1,5 tỷ đồng/trụ sở đây là cố gắng rất lớn của tỉnh (chưa có tỉnh nào hỗ trợ như tỉnh ta); phần còn lại đề nghị UBND huyện, xã sử dụng nguồn thu từ cấp quyền sử dụng đất và các nguồn vốn hợp pháp khác cùng với nguồn hỗ trợ của tỉnh để thực hiện.

6. Cử tri huyện Mỹ Lộc, Nam Trực, Nghĩa Hưng đề nghị tỉnh có cơ chế hỗ trợ, nâng cấp trạm y tế xã để đạt chuẩn về y tế và xây dựng nhà văn hoá thôn (xóm).

Việc đầu tư xây dựng, nâng cấp trạm y tế xã để đạt chuẩn về y tế và đầu tư xây dựng nhà văn hoá thôn (xóm) là rất cần thiết. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư và khả năng ngân sách của tỉnh còn hạn chế nên việc bố trí vốn tập trung đầu tư cho các nội dung trên chưa thể thực hiện được.

Ngày 04-6-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 800 phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, trong đó có nội dung hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn hoá về y tế trên địa bàn xã và các công trình nhà văn hoá xã, thôn; khi Trung ương hỗ trợ kinh phí, tỉnh sẽ tổ chức triển khai thực hiện.

7. Cử tri các huyện Xuân Trường, Nam Trực, Ý Yên phản ánh nguồn vốn để hỗ trợ nông dân mua máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp quá nhỏ, thủ tục phức tạp, gây phiền hà cho người dân.

Đây là nguồn vốn thực hiện theo cơ chế của Ngân hàng. Tiếp thu ý kiến của cử tri, UBND tỉnh đã đề nghị nhiều lần với Ngân hàng Nhà nước Trung ương và các Ngân hàng Thương mại Trung ương.

8. Cử tri huyện Xuân Trường đề nghị tỉnh chỉ đạo ngành chức năng có chính sách hỗ trợ, chỉ đạo các tổ chức tín dụng khoanh nợ đối với các hộ dân tham gia dự án chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản thuộc hai xã Xuân Hoà, Xuân Vinh hiện đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh.

Việc này thuộc thẩm quyền của các Ngân hàng Thương mại. UBND tỉnh tiếp thu và chỉ đạo các Ngân hàng Thương mại tỉnh đề nghị Ngân hàng Thương mại Trung ương xem xét, tháo gỡ.

IV. Thực hiện chính sách xã hội:

1. Cử tri một số huyện kiến nghị về việc giải quyết chế độ cho các đối tượng là quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác theo Quyết định 142 của Thủ tướng Chính phủ:

- Đến nay, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã duyệt được 39.176 hồ sơ; trong đó đề nghị cơ quan cấp trên quyết định 13.755 đối tượng được hưởng chế độ trợ cấp một lần theo quy định với tổng số tiền là 66,8 tỷ đồng (hiện nay, đã chi trả được cho 8000 đối tượng với số tiền là 44 tỷ đồng; số còn lại đang tiếp tục chi trả). Ngoài ra còn gần 4000 đối tượng là diện không còn các giấy tờ chứng minh đã tham gia quân đội, đang được Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh thẩm định, trình cơ quan cấp trên xem xét, giải quyết.

- Đối với 460 hồ sơ thuộc diện được hưởng trợ cấp hàng tháng: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã thẩm định và báo cáo Bộ Tư lệnh Quân khu 3 xem xét; khi nào có quyết định sẽ bàn giao cho ngành LĐTB&XH tiếp nhận để chi trả trợ cấp hàng tháng.

2. Cử tri huyện Giao Thuỷ phản ảnh: Việc giải quyết chế độ cho người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học còn chậm, thiếu công bằng, có biểu hiện tiêu cực…

Theo báo cáo của Sở LĐTB&XH, hiện nay, Sở LĐTB&XH chưa nhận được hồ sơ người nhiễm chất độc hoá học của huyện Giao Thuỷ. UBND tỉnh đề nghị cử tri, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan, đơn vị phản ánh cụ thể, kịp thời về UBND tỉnh các cá nhân, đơn vị có biểu hiện tiêu cực trong việc giải quyết chế độ người hoạt động kháng chiến để có biện pháp xử lý nghiêm khắc. UBND tỉnh giao Sở LĐTB&XH phối hợp với các sở, ngành liên quan làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, tạo điều kiện cho toàn dân giám sát việc này để đảm bảo công bằng.

3. Đối với việc giải quyết hồ sơ thanh niên xung phong bị thương tồn đọng:

UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết hồ sơ thanh niên xung phong bị thương tồn đọng tại Bộ GTVT theo Thông báo số 92 ngày 3-5-2007 của Văn phòng Thủ tướng Chính phủ và đã giải quyết được 707 đối tượng đủ điều kiện được hưởng chế độ theo quy định. Những trường hợp còn lại nếu đủ điều kiện sẽ được xem xét tiếp theo quy định hiện hành.

4. Cử tri huyện Vụ Bản đề nghị các ngành chức năng sớm khắc phục tình trạng thực hiện chậm chế độ mai táng phí cho các đối tượng chính sách.

Theo báo cáo của Sở LĐTB&XH, việc giải quyết chế độ mai táng phí cho các đối tượng người có công do Sở LĐTB&XH quản lý đã được thực hiện đầy đủ, kịp thời và không để hồ sơ tồn đọng. Ngoài các đối tượng do Sở LĐTB&XH quản lý, còn có các đối tượng khác do các huyện, thành phố trực tiếp chi trả mai táng phí như: Cựu chiến binh, người cao tuổi, người tàn tật…

Do cử tri huyện Vụ Bản không nêu rõ việc chậm thực hiện chế độ mai táng phí thuộc diện đối tượng nào nên cơ quan chuyên môn của tỉnh không có cơ sở để phối hợp với UBND huyện Vụ Bản kiểm tra, giải quyết cụ thể.

5. Cử tri của một số huyện phản ánh việc hỗ trợ xây dựng nhà ở cho các đối tượng nghèo không được hỗ trợ một lần gây khó khăn cho đối tượng.

Đây là nguồn vốn do ngân sách Trung ương hỗ trợ; UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành có liên quan thực hiện kịp thời khi được ngân sách Trung ương hỗ trợ theo đúng danh sách các huyện, thành phố đề nghị.

V. Công tác xây dựng chính quyền:

1. Cử tri một số huyện đề nghị tỉnh nâng mức hỗ trợ đối với giáo viên mầm non ngoài biên chế; cho phép tuyển giáo viên mầm non trình độ đại học, cao đẳng sư phạm (hệ tại chức).

- Tại kỳ họp này, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh đề án phát triển giáo dục mầm non tỉnh Nam Định đến năm 2015, trong đó có nội dung nâng mức sinh hoạt phí cho đội ngũ giáo viên mầm non theo trình độ đào tạo. UBND tỉnh sẽ tổ chức thực hiện nghiêm nghị quyết của HĐND tỉnh về việc này.

- Về đề nghị tỉnh cho phép tuyển giáo viên mầm non trình độ đại học, cao đẳng sư phạm hệ tại chức: UBND tỉnh đề nghị thực hiện đúng Nghị quyết 08 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.

2. Cử tri huyện Mỹ Lộc đề nghị tỉnh tạo cơ chế chính sách cho những cán bộ giáo viên tuổi cao được đào tạo trước năm 1980 về nghỉ hưu theo chế độ 132, đồng thời mạnh dạn nhận giáo viên trẻ mới tốt nghiệp, có trình độ, được đào tạo chính quy vào giảng dạy tại các trường.

UBND tỉnh luôn khuyến khích các sở, ban, ngành, các huyện, thành phố và cá nhân cán bộ viên chức tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị định 132 cho các đối tượng; đồng thời ưu tiên cho giáo viên trẻ mới tốt nghiệp, có trình độ, được đào tạo chính quy vào giảng dạy tại các trường để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong ngành GD-ĐT. Những người không đủ điều kiện nghỉ theo chế độ 132 có thể sắp xếp việc khác cho phù hợp.

UBND tỉnh yêu cầu các sở, ban, ngành của tỉnh, các huyện, thành phố bám sát vào các quy định tại Nghị định 132 của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn về tinh giản biên chế; định kỳ rà soát, xây dựng kế hoạch tinh giản biên chế, lập danh sách người tinh giản biên chế gửi Sở Nội vụ, Sở Tài chính để báo cáo UBND tỉnh, Bộ Nội vụ trước khi ra quyết định tinh giản biên chế cho các đối tượng.

3. Cử tri huyện Xuân Trường đề nghị tỉnh quan tâm đến chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ Ban quản trị HTX nông nghiệp khi thực hiện Thông tư liên tịch 61 về Ban nông nghiệp.

Các HTX nông nghiệp đang hoạt động theo Luật HTX, tự chủ về sản xuất kinh doanh. Thu nhập của cán bộ Ban quản lý HTX phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của HTX. Nhà nước chỉ hỗ trợ cho cán bộ HTX về đào tạo nghiệp vụ, nâng cao trình độ quản lý… Vấn đề này, tỉnh đã thực hiện theo quy định.

4. Cử tri một số huyện, thành phố đề nghị tỉnh tăng mức trợ cấp đối với cán bộ thôn, xóm, tổ dân phố; đặc biệt là phụ cấp đối với các chức danh kiêm nhiệm của cán bộ không chuyên trách vì hiện nay quá thấp.

- Đối với đề nghị tăng mức trợ cấp cho cán bộ thôn, xóm, tổ dân phố: UBND tỉnh xin tiếp thu để nghiên cứu, xem xét trình HĐND tỉnh khi điều kiện ngân sách của tỉnh cho phép.

- Đối với đề nghị tăng phụ cấp cho các chức danh kiêm nhiệm của cán bộ không chuyên trách ở thôn, xóm, tổ dân phố (gồm Trưởng Ban công tác Mặt trận; Bí thư Chi đoàn; Chi hội trưởng: Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân): Nhiều tỉnh hiện nay chưa quy định phụ cấp kiêm nhiệm cho các chức danh này. Ở tỉnh ta, những cán bộ kiêm nhiệm được hỗ trợ thêm mức sinh hoạt phí bằng 0,02 mức lương tối thiểu/người/tháng (ngoài mức hỗ trợ sinh hoạt phí cho cán bộ thôn, xóm, tổ dân phố là 0,1 mức lương tối thiểu/người/tháng). Đây là sự quan tâm của tỉnh đối với đội ngũ cán bộ ở thôn (xóm) và tổ dân phố trong điều kiện ngân sách của tỉnh còn nhiều khó khăn. Khi ngân sách tỉnh có điều kiện, UBND tỉnh sẽ trình HĐND tỉnh xem xét, quyết định.

5. Cử tri huyện Trực Ninh đề nghị UBND tỉnh quan tâm trình cấp có thẩm quyền phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang trong thời kỳ chống Pháp" cho xã Trực Hưng.

UBND tỉnh đã trình các cấp có thẩm quyền nhưng chưa được phê duyệt. Tiếp thu ý kiến của cử tri, UBND tỉnh tiếp tục trình cấp có thẩm quyền phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang trong thời kỳ chống Pháp" cho xã Trực Hưng.

6. Cử tri huyện Vụ Bản đề nghị tỉnh tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hoá, nâng cao năng lực trình độ cho đội ngũ giáo viên, đặc biệt là số giáo viên nhiều tuổi, đã được đào tạo trước đây, hiện không đáp ứng được yêu cầu giảng dạy theo chương trình mới.

Hiện nay, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trở lên ở các cấp học của tỉnh ta như sau: Giáo dục mầm non 91%; Tiểu học 99,9%; THCS 97,6%; THPT 99,5%; GDTX 98,2%. Như vậy, tỷ lệ giáo viên không đạt chuẩn, không đáp ứng được yêu cầu đào tạo còn lại rất ít.

Tiếp thu ý kiến cử tri, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo ngành GD-ĐT để nâng cao chất lượng và trình độ của đội ngũ giáo viên. Những giáo viên cao tuổi, không đáp ứng được yêu cầu sẽ thực hiện theo Nghị định 132 của Chính phủ nếu cá nhân giáo viên đó đủ điều kiện và tự nguyện hoặc sắp xếp vào việc khác cho phù hợp.

VI. Về các đề án trình HĐND tỉnh:

UBND tỉnh căn cứ vào các văn bản pháp lý của Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương hướng dẫn, tham khảo các địa phương đã làm, đồng thời lấy ý kiến của các huyện, thành phố, các sở, ngành liên quan để xây dựng đề án đúng quy trình với tinh thần tích cực, đảm bảo sự hoạt động của cơ sở và phù hợp với  khả năng ngân sách.

Đối với đề án đặt tên đường, phố: UBND tỉnh nghiêm túc tiếp thu ý kiến của các Đại biểu HĐND tỉnh và xin đề nghị điều chỉnh như sau:

- Đường số thứ tự 16 trong đề án đặt tên là phố Song Hào, nay đề nghị đặt tên là phố Ngô Gia Khảm.

- Đường số thứ tự 30 trong đề án đặt tên là phố Ngô Gia Khảm nay đề nghị đặt tên là phố Song Hào.

- Cầu vượt nằm trên quốc lộ 10 thuộc địa phận xã Lộc Hoà trong đề án đặt tên là cầu Tân An nay đề nghị đặt tên là cầu Lộc Hoà.

Phần tóm tắt tiểu sử công trạng của các danh nhân sẽ được bổ sung, làm rõ và cụ thể hơn.

Trong quá trình phát triển hạ tầng đô thị thành phố Nam Định, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND thành phố phối hợp với các ngành liên quan lựa chọn những tuyến đường có quy mô để đặt tên những nhà hoạt động cách mạng có công lớn với đất nước là người Nam Định và các danh nhân khác trong cả nước, trình HĐND tỉnh xem xét, quyết định.

Các nội dung khác xin được giữ nguyên.

UBND tỉnh đề nghị HĐND tỉnh xem xét và ban hành nghị quyết để UBND tỉnh tổ chức triển khai thực hiện.

VII. Những nội dung khác thuộc chuyên môn của các sở, ngành hoặc thuộc thẩm quyền của các huyện, thành phố: UBND tỉnh sẽ chỉ đạo các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố tiếp thu, trả lời các đoàn Đại biểu HĐND tỉnh của các huyện, thành phố để báo cáo cử tri.

Kính thưa:
- Chủ toạ kỳ họp!
- Các vị đại biểu!

Thay mặt UBND tỉnh, tôi xin cảm ơn sự quan tâm của các vị đại biểu HĐND và cử tri toàn tỉnh. Đồng thời yêu cầu Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, thủ trưởng các sở, ban, ngành và các đơn vị thực hiện nghiêm những Nghị quyết kỳ họp thứ 14, HĐND tỉnh khoá XVI đề ra.

Kính chúc các đồng chí và các vị đại biểu sức khoẻ, hạnh phúc.
Chúc kỳ họp thành công tốt đẹp.
Xin cảm ơn./.


BÁO NAM ĐỊNH ĐIỆN TỬ

Tổng biên tập: Phạm Văn Trường

Phó Tổng biên tập: Trần Vân Anh, Nguyễn Thị Thu Thủy

Tòa soạn: Số 68 Trần Phú, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

Điện thoại: 0228.3849386; Email: toasoanbnd@gmail.com